Cách thức nào đã giúp Fujifilm sống sót qua thời đại kỹ thuật số
Một thời là gã khổng lồ trong ngành nhiếp ảnh phim, Fujifilm đã trở thành một nhân tố lớn mạnh trong ngành Y tế và Mỹ phẩm như hiện nay theo cách nào?
Bước ngoặt lớn
Là một nhà khoa học làm việc cho Fujifilm, Tomoko Tashiro phụ trách việc phát triển công nghệ giấy in ảnh màu. Thế nhưng sau khi trở lại làm việc sau thời gian nghỉ thai sản vào năm 2005, bà bất ngờ khi nhận được lời tham gia làm việc ở lĩnh vực mỹ phẩm cũng trực thuộc Fujifilm hay không.
"Tôi cảm thấy sốc. Tôi không chắc được dự án này có thể thành công hay không," bà Tashiro cho hay. "Mọi người đều lo lắng về việc làm cách nào công nghệ máy ảnh phim có thể áp dụng vào mỹ phẩm và thực phẩm bổ sung."
Hiện tại, phân khúc mỹ phẩm và y tế mang lại lợi nhuận cao nhất cho Fujifilm, đóng góp trên 3.4 tỉ đôla Mỹ (4.8 tỉ đôla Mỹ) cho tổng doanh thu của doanh nghiệp.
Ý chí thực hiện một sự thay đổi quyết liệt và thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường là yếu tố giúp Fujifilm - từ một gã khổng lồ trong ngành nhiếp ảnh phim - trỗi dậy và tiếp tục phát triển khi thời đại kỹ thuật số ào đến, ngay cả khi công ty đối thủ Kodak đã thành một ví dụ kinh điển về sự thất bại do thiếu sự đổi mới.
Không còn cách nào khác là phải đi ngược lại tất cả
Thành lập vào năm 1934, trải qua nhiều thập niên, Fuijifilm gần như sở hữu vị trí độc tôn trong mảng phim chụp ảnh tại Nhât. Khi làn sóng kỹ thuật số đầu tiên xuất hiện vào những năm 1980, nó chỉ tạo tác động trong phạm vi thị trường doanh nghiệp. Fujifilm khi đó đã nhạy bén cho ra đời máy chiếu X-quang cung cấp cho bệnh viện.
Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Shigetaka Komori cho biết công ty quyết định không bỏ qua công nghệ kỹ thuật số, bất chấp thực tế rằng việc này chẳng khác gì đi ngược lại hoàn toàn với tầm nhìn của hãng".
Ông giải thích: "Nếu chúng tôi không bắt tay vào thực hiện, công ty khác sẽ thực hiện. Đó là lý do vì sao tôi quyết định công ty sẽ phải dấn thân vào mảng kỹ thuật số và trở thành một nhân tố tiềm năng trong lĩnh vực này".
Năm 1988, Fujifilm ra mắt chiếc máy ảnh kỹ thuật số đầu tiên trên thế giới: thiết kế FUJIX DS-1P.
Chiếc máy hình với thẻ nhớ có khả năng lưu trữ từ 5 đến 10 bức ảnh, tự hào với chất lượng ảnh 1.1 megapixel. Tuy vậy nó vẫn khá đắt đỏ với mức giá hơn 10,000 đôla Mỹ, và chỉ được đa số các chuyên gia trong ngành báo chí sử dụng là chính.
"Đây không phải là mức giá mà một nhiếp ảnh gia nghiệp dư có thể chi trả... và độ phân giải vẫn còn có vấn đề. Vì thế nhiếp ảnh kỹ thuật số không thể nào sánh kịp với nhiếp ảnh bình thường", ông Komori cho biết.
Fujifilm tưởng rằng hãng đã đi trước một bước nhưng thời đại kỹ thuật số vẫn chưa thực sự khởi đầu. Tiếp đó, thị trường phim chụp ảnh vẫn phát triển. Đến năm 2001, 2/3 lợi nhuận của công ty vẫn đến từ phim chụp ảnh.
Fujifilm đã từ bỏ mảng đầu tư kinh doanh mới, dù đã đi tiên phong với chiếc máy ảnh kỹ thuật số trước đó từ cả một thập niên. Hãng nhận định rằng ảnh in sẽ còn tồn tại và tiếp tục đầu tư hàng triệu đôla Mỹ vào dòng sản phẩm Instax Mini - là máy ảnh chụp phim cho phép chụp và in ảnh trong tic tắc. Sản phẩm được bán hơn hàng triệu bản vào năm 2002.
Cuộc càn quét trong chớp mắt
Nhưng không lâu sau đó, năm 2003, thời đại kỹ thuật số được mong đợi cuối cùng đã đến * và nó là một "cú trời giáng" đối với Fujifilm.
Doanh thu của phim ảnh giảm đến 1/3 trong vòng chưa đầy một năm. Trong vòng 6 tháng, các cửa hàng từ việc bán được hơn 5000 cuộn phim trong một ngày, chỉ còn bán được chưa đến 1000 cuộn. Thị trường mang lại 2/3 lợi nhuận cho công ty biến mất trong chớp mắt. Ông Komori cho biết: "Ban đầu, tôi cho rằng phim màu sẽ không dễ dàng biến mất như vậy, nhưng kỹ thuật số thực sự càn quét mọi thứ trong khoảng khắc."
Thêm vào đó, thời điểm này lại xuất hiện thêm một công nghệ mới mang tính đột phá - điện thoại di động. Yếu tố này cách mạng hóa nhiếp ảnh kỹ thuật số. Chụp ảnh kỹ thuật số rẻ hơn, nhanh hơn, và Facebook Instagram, Twitter trở thành những cái tên tiên phong trong ngành nhiếp ảnh, ngay lúc doanh số smartphone tăng nhanh.
Sự thay đổi mạnh mẽ là điều Fujifilm cần lúc đó.
Bước thay đổi đầu tiên chính là quyết định đóng cửa các cơ sở sản xuất phim chụp ảnh, cắt giảm khoảng 5000 vị trí làm việc. Công ty đã chi hơn 5 tỉ đôla Mỹ cho việc này, nhưng vẫn phải đối mặt với cuộc chiến lớn trong việc tạo ra nguồn thu nhập mới.
Vượt khỏi film, đến với chăm sóc da và dược phẩm
Ông Komori đưa ra kế hoạch mang tính đấu tranh thay đổi để đa dạng hóa Fujifilm vào các mảng công nghiệp dược phẩm, y tế và mỹ phẩm. Những ngàn này gần như hoàn toàn không liên quan đến nhiếp ảnh, nhưng Fujifilm luôn hiểu rằng công nhệ luôn có tiềm năng ứng dụng to lớn bên ngoài lĩnh vực nhiếp ảnh.
Công ty tích lũy được khoảng hơn 20,000 chất hóa học sau gần một thập niên nghiên cứu. Tất cả đều từng được dùng để phát triển phim chụp ảnh, nhưng giờ đây sẽ được dùng làm thành phần cho bộ phận sản xuất dược phẩm mới của Fujifilm.
Trong mảng mỹ phẩm, công ty sử dụng cùng cách thức và chất hóa học được dùng để chống mờ màu ảnh vào việc ngăn da mặt không bị chảy xệ và nhợt nhạt.
Trợ lý giáo sư Sampsa Samila của trường NUS Busimess School đã phải thốt lên ngạc nhiên: "Để có thể dùng ý tưởng này, sử dụng cùng một chuyên môn hóa học và ứng dụng vào một lĩnh vực hoàn toàn khác lạ, là một góc khám phá vô cùng thú vị."
Hiện tại, công ty nghiên cứu phát triển thuốc chống ung thư và bệnh suy thoái thần kinh như Alzheimer's và các bệnh truyền nhiễm.
Khả năng lãnh đạo tài ba và tầm nhìn xa của ông Komori đã cứu và chuyển hóa Fujifilm từ một công ty nhiếp ảnh thành một doanh nghiệp khoa học đa dạng.
Ngày nay, phim ảnh - phân khúc từng đóng góp đến 70% lợi nhuận của công ty, chỉ còn dưới 1%. Nhưng tại sao Fujifilm vẫn tiếp tục giữ lại nó?
Ông Komori cho biết công ty sẽ luôn bảo tồn văn hóa nhiếp ảnh và giữ nó. "Nền văn hóa nhiếp ảnh là một trong những yếu tố con người không thể thiếu được."
"Chúng tôi không kiếm lợi nhuận từ nó, nhưng chúng tôi vẫn luôn đầu tư vào phim màu. Dù thế nào, chúng tôi cũng sẽ không từ bỏ nhiếp ảnh."
Vân Bích
iPrice Group
*Bài viết đã đăng tải trên Nhịp Cầu Đầu Tư số 523