Marketer Dentsu Redder
Dentsu Redder

Công ty Cổ phần Quảng cáo Redder Asia

Dentsu Redder Impact Academy: Tính thơ và Khả năng đánh thức các giác quan trong phim của Trần Anh Hùng

Dentsu Redder Impact Academy: Tính thơ và Khả năng đánh thức các giác quan trong phim của Trần Anh Hùng

"Có lẽ sức hút của một người nghệ sĩ nằm ở cách anh ta thể hiện 'cái tôi' trong những tác phẩm của bản thân."

Bài viết là nội dung buổi chia sẻ của đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng tại chương trình Dentsu Redder Impact Academy về nghệ thuật điện ảnh, cá tính và năng lực trong một người nghệ sĩ, về đam mê và dấn thân, về văn hoá Việt Nam.

Dentsu Redder Impact Academy là một sáng kiến phi lợi nhuận từ tháng 10/2020 kết nối với nhiều chuyên gia ở nhiều lĩnh vực nhằm mang đến cho nhân sự tập đoàn Dentsu và cộng đồng quảng cáo tại Việt Nam một thế giới quan đa chiều, những góc nhìn mới, phản biện và sâu sắc, đồng thời gieo mầm, khơi gợi những cảm hứng, rung động dễ bị quên lãng trong cuộc sống thường nhật, và khuyến khích mọi người hướng sâu về nhân sinh và bên trong cuộc sống. Tìm hiểu thêm về chương trình tại đây

*Podcast cũng có mặt trên các nền tảng: Apple Podcast và VoizFM

 

Mở đầu cuộc trò chuyện, anh Hùng bộc lộ rằng nguồn cảm hứng nghệ thuật mà anh có được, cũng như những người làm nghệ thuật khác, đều phải bắt đầu với cảm hứng cá nhân. Cảm hứng cá nhân chính là những rung động cảm xúc mãnh liệt, hoặc sâu lắng, nhưng đều thôi thúc chúng ta phải hành động, phải bộc lộ ra bên ngoài. Như một trong những nguồn cảm hứng của anh, ở cái thời bắt đầu làm phim, là sợ phim mình làm sẽ giống phim Trung Quốc. Nên anh đã loại bỏ thẳng thừng gam màu đỏ đặc trưng trong những phim ấy, có thể thấy rõ qua ‘Mùa hè chiều thẳng đứng’ – một phim đậm chất thơ trong từng phân cảnh, nhịp điệu, lời thoại, thanh âm (tiếng ve) và tính cách của nhân vật. Đây là một quyết định về mặt thẩm mỹ mà chúng ta có thể kiểm soát được. Cũng nói về tính thẩm mỹ, một người làm phim phải hiểu chất thẩm mỹ mà bản thân muốn tạo ra là gì. Và đặc biệt hơn, cái chất thẩm mỹ mà “mình” là người cảm nhận, nó là cái gì – đây chính là cái chất sẽ tạo ra bộ phim.

Nguồn: Fim+

Là một người sống xa Việt Nam, anh Hùng nhận định rằng bản thân dễ dàng nhận ra những dấu ấn đặc trưng trong văn hoá hơn những người “sống” thường nhật trong văn hoá đó. Có thể vì sự thân thuộc đôi khi làm con người dễ quên đi sự đặc sắc hay điểm mới mẻ của nó, hoặc vì chúng ta đang chiêm nghiệm một thứ “quá chính xác theo lề lối thường nhật/ ký ức và cảm xúc/ thói quen của chúng ta”. Đây cũng là một điều tương tự trong phim ‘This is water’ của David Foster Wallace, khi mà 2 chú cá đang bơi thì được một con cá ngược chiều khác hỏi rằng: “How is the water? (Nước hôm nay thế nào)”. Hai chú cá kia đã ngẩn ngơ vì “Nước là cái gì?”.

Một người làm phim, hay một người làm sáng tạo, phải biết cách đặt bản thân trong sự tương quan với cái mà mình muốn lột tả và đặc tả. Cụ thể, người ta phải biết đặt bản thân ra ngoài sự vật hiện tượng để có cái nhìn mới lạ, tổng quan, để chiêm nghiệm và nhìn nhận sự vật ấy một cách toàn cảnh nhất. Sau đó, người làm sáng tạo mới đắm chìm vào trong sự vật, hiện tượng ấy nhằm quan sát được sự vận động nội tại mà chính bản thân là một đối tượng đang trực tiếp tương tác và “sống” trong đó, dùng xúc cảm của chính bản thân để truyền dẫn những rung động của mối quan hệ từ bên trong đến những người khác. Nếu làm được cả hai, người làm sáng tạo không những có thể đem đến sự tươi mới cho khán giả, mà còn truyền tải được những rung động cảm xúc, những nguồn cảm hứng để tiếp tục khai thác những khía cạnh khác của sự vật, hiện tượng.

Phim của Trần Anh Hùng, theo đó, không chứa đựng cái nhìn thông thường của một người Việt sống thường nhật tại Việt Nam về đất nước này. Lấy ví dụ, một miếng lá chuối gói xôi có thể là rác với chúng ta, nhưng đối với Trần Anh Hùng, xôi lấm tấm trên nền chuối xanh là một nét đẹp, một sự tươi mới, một cảm giác thẩm mỹ nhất định. Và sự tươi mới này đến từ góc nhìn chứ không phải nội dung (lá chuối gói xôi). Vậy làm sao truyền tải được góc nhìn đó?

Nghệ thuật chính là cái nhìn, chứ không phải nội dung.

Ta phải tìm cái “tứ” trong cái “có”, tìm được sợi dây liên kết về mặt cảm xúc, tìm được sự rung động khi nhìn những sự vật, những cái “có” thông thường. Nghệ thuật chính là cái nhìn, chứ không phải nội dung. Bằng chứng là, với cùng một nội dung hoặc mô tuýp, vẫn có phim hay bỏ xa hàng loạt những phim khác. Như cùng là chủ đề về theo đuổi đam mê, ‘La La Land’ đã nhìn đam mê và nghị lực trong câu chuyện cuộc sống, lựa chọn của mỗi người sẽ dẫn họ tiến về phía trước nhưng lại rời xa nhau; trong khi ‘The Greatest Showman’ lại cho người ta tìm thấy nhau trong những cơn say tham vọng nhưng tỉnh mộng nơi đỉnh cơn say; hoặc trong 'Soul', đam mê và mục đích sống lại là thứ ta được lựa chọn hoặc cũng là thứ có thể đè bẹp chính chúng ta, trở thành cơn ám ảnh kinh hoàng nhất.

Một góc nhìn sắc sảo đòi hỏi sự tập trung sắc bén. Vậy thì, ngoài tính thẩm mỹ, mình nên tập trung vào cái gì? Chúng ta cần tập trung vào cái đúng, bởi khi đúng (đúng con người, đúng tâm lý nhân vật, đúng bối cảnh, đúng chừng đúng mực…) thì nó sẽ đẹp. Nhưng nếu chỉ vì yêu cái đẹp mà cho tất cả những thứ chúng ta nghĩ là đẹp vào một cảnh phim, thì chính cái đẹp ấy sẽ giết chết cái đẹp thật sự của cảnh phim. Hoặc tổng hoà lại, chẳng còn gì là đẹp một cách xuất sắc hay đẹp một cách thẩm mỹ, chỉ là cái đẹp rời rạc. Khi làm đúng thì chất thẩm mỹ sẽ hiện lên như một kết cuộc tất yếu, và đó là chất thẩm mỹ có gốc rễ, có nội hàm, có nền tảng để người xem “cảm” và “hiểu” được một cách đúng đắn và trọn vẹn. Theo góc nhìn này, một đống rác dù bẩn, dù không “đẹp” theo lý lẽ thông thường, thì vẫn có thể “đẹp” trong một góc nhìn mang tính thẩm mỹ.

Để khai thác đối tượng một cách sâu sắc, chúng ta phải nắm bắt được “hiện tại” và “hiện thực” của đối tượng đó. Đây là một chuyện không dễ dàng. Những người luyện tập thiền sẽ hiểu được khái niệm này nhanh hơn, vì thiền đạo chứa đựng trong nó khái niệm và phương thức làm được điều này. Thiền đạo xem trọng giây phút hiện tiền và chỉ cho người thực hành chú trọng đến giây phút đó và những gì đang diễn ra trong hiện thực ấy. Bằng cách đó, con người sống trong từng phút giây mạnh mẽ hơn, có sức sống hơn và sâu sắc hơn vì họ sống “đầy” hơn. Điều này giúp con người tiếp thu và tiếp nhận được trọn vẹn những “lát cắt” của cuộc sống, nhưng không làm mất đi yếu tố tổng thể, và từ đó có thể chọn cho bản thân những gì tâm đắc nhất, đẹp nhất (theo nghĩa thẩm mỹ, góc nhìn có chủ ý) mà không làm mất đi tính đúng đắng của nó. Đây cũng là một khía cạnh khác của “cái nhìn/góc nhìn” của người nghệ sỹ. 

Nguồn: Tổng hợp

Nhưng để có được “con mắt” hay “góc nhìn” này không phải là chuyện dễ dàng. Đầu tiên, chúng ta phải nhìn và muốn nhìn đã, sau đó thì phải muốn nhìn ở các góc độ khác nhau, và từ đó chọn ra góc nhìn mà ta rung động nhất và muốn chia sẻ chúng với người khác. Khi đã quen nhìn sự vật/ sự việc ở góc độ tươi mới, thì ngay cả khi xem một bộ phim nào đó không quen thuộc với nền văn hoá của bản thân, chúng ta cũng sẽ tự hỏi rằng đạo diễn có cái nhìn độc đáo, hay dụng ý nghệ thuật gì? Và bắt đầu, “cặp mắt” của chúng ta sẽ dò tìm những thứ “tươi mới” để cảm nhận “góc nhìn” của đạo diễn – về bối cảnh, con người, cách khai thác những “vật liệu” đó.

Một người đạo diễn khi đem cái mới, đưa góc nhìn của bản thân vào các tác phẩm nghệ thuật, hãy yên tâm rằng khán giả dù chưa quen với góc nhìn hoặc chưa hiểu được cái tươi mới ấy thì họ vẫn nhận được món quà từ đó một cách trọn vẹn. Chính nhờ cái nhạy cảm trong tâm hồn của một con người, khán giả có thể “nhận” được món quà ấy. Bởi chất nghệ thuật không cần hỏi ý kiến, hay trưng cầu sự chấp thuận vẫn có thể đi vào lòng người, và đôi khi họ còn không nhận thức được điều đó. Mặt khác, khán giả cũng phải “chịu trách nhiệm” cho sự cảm nhiễm nghệ thuật. Họ cần tôi luyện rung động nghệ thuật, cảm quan nghệ thuật, sự nhạy cảm nghệ thuật bằng những bộ phim hay, những thể loại nghệ thuật mà trong đó người nghệ sỹ trưng ra góc nhìn độc đáo của bản thân. Cũng giống như nuôi ấm trà, ta phải nuôi nó với “trà ngon”. Con người cần làm cho chất nhạy cảm của mình phong phú hơn.

Vậy làm sao để làm được điều đó. Anh Hùng chia sẻ, lúc bắt đầu làm phim, anh cũng phải đọc nhiều sách, xem nhiều phim để rút ra được những điều mà bản thân thích và không thích. Và sự hiểu về khẩu vị bản thân đó, hiểu được tại sao mình thích và không thích, là một “kho tàng nghệ thuật”. Mặt khác, khi chúng ta đứng giữa những khẩu vị và sự hiểu biết đó, đặt mình vào vai trò người sáng tạo, những lựa chọn sẽ xuất hiện ở khoảng không của “sáng tạo” và “suy nghĩ”. Anh lấy ví dụ về một quyển sách mà chỉ mới đến trang 13, vì một chi tiết nhỏ, mà anh đã thấy rất khó chịu. Cụ thể là tác giả đã xâm phạm vào không gian của nhân vật chính, người dẫn dắt độc nhất của câu chuyện. Tóm lại, chỉ có bản thân là người dựng nên được “gia đình nghệ thuật” và “khẩu vị” của chính mình thông qua việc “làm”, “đọc”, “xem”, và “suy ngẫm”. 

Nghệ thuật là góc nhìn, mà trong mỗi góc nhìn là những rung động hay xung động của cảm xúc.

Nhưng đừng bao giờ nghĩ rằng phải biết hết mọi câu trả lời thì mới sáng tác được. Những góc nhìn sẽ được phát triển trên con đường chúng ta đi, thông qua sự lựa chọn của chính bản thân mình. Bạn cũng đừng cho rằng ta phải làm chủ, phải điều khiển từ những chi tiết nhỏ nhất, lúc nào cũng hoạch định trước, chuyện này phải dẫn đến chuyện kia và hoàn toàn nắm được từng đường đi nước bước. Điều này không cần thiết. Quan trọng là chúng ta tìm được sự rung động trong hành trình sáng tạo. Những quyết định của chúng ta phải cảm được mạch cảm xúc, hay nhịp đập của con tim.

Thật vậy, nghệ thuật là góc nhìn, mà trong mỗi góc nhìn là những rung động hay xung động của cảm xúc. Nếu muốn truyền tải tri thức, làm rõ một suy nghĩ hay ý tưởng nào đó mà ưu tiên quan trọng nhất là sự mạch lạc, rõ ràng và đồng nhất, thì chúng ta nên viết sách hay một loại văn bản nào đấy. Còn thế giới của nghệ thuật là cảm xúc. Mà cảm xúc thì phức tạp và có khi vô lối, khó hiểu và rối rắm.

Người làm nghệ thuật phải truy cầu một cảm xúc nào đó khiến bản thân xúc động, và dựa vào đó để tiến bước. Đó có thể là thương, ghét, hoặc nằm đâu đó ở giữa, miễn chúng khiến ta muốn bộc lộ suy nghĩ và chia sẻ góc nhìn thì đó là một “xương sống tốt”. Một người làm phim, làm nghệ thuật không nhất thiết phải trải qua hết mọi điều mà bản thân cho là chất liệu quan trọng “phải” có trong tác phẩm. Nếu có thì tốt. Nếu không, cũng không quá quan trọng.

Mặt khác, não người có thể tái hiện lại hoặc cài đặt các cảm giác mà ta từng được tiếp xúc và cảm nhận một cách chi tiết. Não không phân biệt được cảm giác là “thực tế” trải nghiệm hay là “tưởng tượng”. Do đó, bằng cách “sống” và “trải nghiệm” một cách “gián tiếp”, người làm nghệ thuật có thể “vay mượn”, hoặc tái tạo những cảm nghiệm mà họ muốn từ những thế giới khác như sách báo, tranh ảnh, phim hay cuộc sống. Do đó, cần sự nhạy cảm với chính bản thân để hiểu những biến chuyển nhỏ nhất, để từ đó bồi dưỡng nội tâm sâu sắc và phong phú.

Khi xem một bộ phim, dù là kịch bản gốc hay dựng từ các tác phẩm văn học, người xem đừng vội so sánh, mà hãy xem trước đã. Khán giả hãy nhận những “món quà” từ bộ phim rồi hạ hồi mới phân giải. Nếu bảo rằng phim chuyển thể từ sách hay một nguồn cảm hứng nào đó, hãy đặt câu hỏi rằng đạo diễn muốn trung thành với cái gì trong phim ấy? Ông muốn trung thành với cốt truyện gốc, với nhân vật, hay với cảm xúc mà ông nhận được từ một tình tiết nào đấy trong cốt truyện gốc? Cũng cần phân biệt rõ, phim và sách là hai lĩnh vực khác nhau, và việc tiếp nhận cốt truyện giữa phim (2 tiếng) và sách (2 tháng, ví dụ) là khác nhau đối với cùng một khán giả. 

Khi muốn so sánh, khán giả cần tự nhận thức được: (1) Khả năng so sánh đang ở cấp độ nào, và (2) Cảm xúc của chính bản thân khi đọc sách và xem phim. Tại sao khán giả trông chờ một bộ phim phải giống y như sách? Tại sao chúng ta lại mong chờ rằng sách và phim phải truyền tải “góc nhìn” như nhau, và diễn tiến cốt truyện tuần tự như nhau? Đạo diễn là người có trách nhiệm chọn lựa góc nhìn, chọn lựa những gì tinh tuý nhất để gửi đến khán giả, mong sao nó có thể nuôi dưỡng sự nhạy cảm, chất nghệ thuật trong lòng khán giả, hoặc hơn nữa là làm họ rung động như chính bản thân mình.

Mặt khác, chúng ta đang tưởng tượng rằng tác giả của quyển sách có những kỳ vọng, mà thực ra là sự diễn dịch hay là ước vọng của chính bản thân người đọc. Người đạo diễn khi đọc quyển sách của tác giả có quyền giả định rằng đây chỉ là một con người xa lạ, không có kỳ vọng nào đối với sự diễn dịch của mình khi chuyển thể thành phim. Ta chỉ có thể biết ơn họ vì đem đến một góc nhìn thú vị, một nguồn cảm hứng hay ho, một chi tiết hay những nhân vật giúp ta có thêm chất liệu và cảm xúc làm phim. Vậy là đủ. Nhà văn đã thành công trong vai trò của họ, và ta sẽ thành công trong việc đem đến góc nhìn qua tác phẩm điện ảnh của ta.

Trong phim, ngôn ngữ điện ảnh là khả năng mã hoá và kiến tạo những chỉ dấu (giai điệu, lời thoại, phân cảnh, nhịp điệu, màu sắc…) sao cho chạm đến các giác quan. Ngôn ngữ điện ảnh rất phong phú, mà những loại hình nghệ thuật khó tạo ra được. Càng tinh tế thì sẽ càng chạm vào sâu trong tâm hồn của người xem, mà họ thật sự khó mà nhận ra được nó đã chạm như thế nào. Họ chỉ đưa tâm hồn ra và ghi nhớ. Vì trong mỗi con người đều có những “bộ giải mã” để đưa những thứ ấy trở thành chuẩn mực mới trong cách thức nhìn nhận thế giới hay sự vật hiện tượng. Ta gọi đó là sự dung nạp về góc nhìn thông qua chất cảm nghệ thuật. Làm được điều đó là ta đã thành công trong việc chạm vào cấu trúc tinh thần của con người.

Ngôn ngữ điện ảnh là khả năng mã hoá và kiến tạo những chỉ dấu (giai điệu, lời thoại, phân cảnh, nhịp điệu, màu sắc…) sao cho chạm đến các giác quan.

Trong ngôn ngữ điện ảnh, pháp ngữ cũng chiếm vai trò khá quan trọng. Mỗi nhân vật, mỗi xã hội đều có những loại pháp ngữ mà nhất định người làm nghệ thuật phải tri nhận được. Khả năng dùng từ tạo ra câu, từ các câu tạo ra nhịp điệu, tạo ra hình ảnh, tạo ra cảm giác và nhạc tính sẽ làm tăng tính gợi cảm và tác động đến cảm xúc. Câu chữ gặp nhau, xem như tâm ý hoà hợp, giữa những câu thoại của nhiều nhân vật hay của nhân vật với chính mình, với cảnh quan xung quanh và thanh âm của sự im lặng.

Bàn về chất thơ, Trần Anh Hùng cho đó là sự thoả thuận của đạo diễn, người làm công việc sáng tạo, với khán giả. Nếu như mình có chú tâm để ý đến chất thơ, thì chắc chắn khán giả sẽ cảm được dù họ có thể không lý giải được chất thơ đó ở đâu, và như thế nào. Tuy nhiên họ sẽ biết đó là chất thơ. Như trong phim ‘Mùa hè chiều thẳng đứng’, từ cảnh nhà văn Mạnh Cường chán chường cho đến cảnh cô vợ thông báo tin vui, những phân cảnh, những hành động, những câu thoại, cử chỉ nhân vật và các cảnh quan thiên nhiên đều được sắp xếp hết sức nhẹ nhàng, có chủ ý và làm nổi bật nhân vật cũng như những tình tiết quan trọng. Tất cả những chi tiết đó phối hợp với nhau tạo thành chất thơ của những cảnh phim trong trích đoạn trên. Và trong không gian đó, nhân vật tiến rất gần với hiện thực, tưởng như đó là 1 lát cắt của hiện thực nào đó được “tăng cường” một chút thanh âm, một chút lãng mạng, một chút riêng tư, một chút tự nhiên…

Có thể thấy chất nhạy cảm của điện ảnh sẽ giúp người xem cảm nhận trọn vẹn dụng ý này, nhưng đồng thời không làm mất đi sự “thực” và đời của cảnh quay. Trái lại, đôi lúc có những sự bố trí sắp đặt tưởng chừng như hoàn hảo nhưng lại không phổ thơ cho đời, mà chỉ là một cảnh quay của phim, mãi mãi không bước ra khỏi màn ảnh và để lại một cảm giác trong trẻo cho khán giả.

Người làm phim cũng phải chú ý đến âm thanh và diễn tiến của âm thanh trong góc nhìn mà mình đã chọn. Cũng trong đoạn trích trên, tiếng ve dường như nhiều hơn sau khi cô vợ báo tin vui. Ta nghe được tiếng nói và tiếng lá, cũng như đâu đó tưởng tượng được nhịp đập con tim của hai vợ chồng, tiếng nước và tiếng bong bóng xà phòng cứ tí tách tan đi.

OST Mùa hè chiều thẳng đứng

Bàn về bản sắc Việt trong phim, Trần Anh Hùng cho rằng phải trung thành và thấu triệt với ngôn ngữ điện ảnh thì khi “rót” những chất Việt Nam vào sẽ đúng và tự nhiên một cách hoàn hảo, hơn là đem câu chuyện bản sắc lên hàng đầu và dựng phim xoay quanh nó. Ngôn ngữ điện ảnh có chuẩn thì mới tôn vinh được bản sắc Việt lên trong góc nhìn mà nó truyền tải. Có yếu tố Việt, tự khắc có bản sắc trong phim. Nếu ngôn ngữ điện ảnh không chuẩn, nghĩa là có yếu tố trong phim chưa được bố trí đúng chỗ, thì yếu tố thẩm mỹ chưa được đảm bảo một cách sắc xảo. Như ta đã thấy nhiều phim Việt cố mang yếu tố Việt vào nhưng lại chưa có ngôn ngữ điện ảnh sắc xảo, nên khi xem sẽ cảm thấy thiếu linh hồn và chưa được “bản sắc” đúng nghĩa. 

Chẳng hạn để mô tả việc cãi nhau của hai vợ chồng, 1 cặp ở Châu Âu và 1 ở Việt Nam, chúng ta sẽ thấy rằng những miêu tả bằng âm thanh, ngôn từ, hành vi, các diễn tiến… là giống hệt như nhau, nhưng trong mỗi cấu phần của cái ngôn ngữ điện ảnh ấy phải chọn được góc nhìn, cách thể hiện để ra được tâm lý và hành xử của nhân vật trong bối cảnh Châu Âu, hay Việt Nam. Chúng ta phải tìm được cái chất liệu cãi nhau trong thực tế cuộc sống của Châu Âu và Việt Nam, rồi dùng góc nhìn và ngôn ngữ điện ảnh để đưa nó lên phim. Đảm bảo rằng trong mỗi thước phim, khán giả sẽ thấy được sự khác biệt. Nhưng để luận bàn rằng thật sự có hay không bản sắc Việt hay bất kỳ bản sắc nào, chúng ta phải nghiêm túc nhìn nhận rằng: Khán giả có hiểu biết về bản sắc văn hoá đó không? Và đạo diễn/ tác giả có mang trong mình bản sắc văn hoá đó không? Đó mới là nhìn nhận về bản sắc văn hoá trong điện ảnh ở chiều sâu của khái niệm.

 

Tóm lại khi xem phim, chúng ta phải xem trước rồi mới tập phân tích: Vì sao phim ấy hay? Vì sao cảnh quay đó "đắt"? Vì sao phim lại có mạch như vậy? Các nhân vật được cấu thành ra sao? Và hơn nữa, tác giả đang ở đâu, đang nhìn hướng nào trong bộ phim này? 

Khi xem phim, khoan luận bàn về bản sắc văn hoá, khoan xét đoán này nọ, bạn hãy tập trung nhìn nhận, xác định và thưởng thức ngôn ngữ điện ảnh – cái đúng đắn, thẩm mỹ, cái đẹp của các chi tiết và tổng thể. Nhưng không vì vậy mà việc “xem” và “cảm” phim là dễ dàng. Người xem phải có kiến thức điện ảnh, cũng như ngôn ngữ của nó. Nếu không cảm nhận nhịp điệu, chất nhạc trong từng thước phim thì trải nghiệm xem sẽ không thể trọn vẹn, mà bị phân tách và bị rời rạc. Nhịp điệu là một phần quan trọng trong linh hồn của phim. Nói cách khác, xem phim phải cảm nhận được “ngữ pháp” của phim để từ đó có sự phân tích một cách chuẩn xác hơn. Muốn vậy phải hiểu biết về điện ảnh chuẩn xác, khoa học và trau dồi “chất cảm”.

Các đạo diễn và người làm nghệ thuật trẻ nhất thiết phải tìm được trong nội tâm sự rung động cảm xúc. Bạn hãy bắt tay vào làm và để cho những tri kiến của chính bản thân được phép thể hiện, được phân tích, lựa chọn, trở thành vốn sống và “gia đình nghệ thuật” của chính mình. Bạn hãy trau dồi chất cảm, sáng tạo, và luôn nhớ rằng không có thước đo tuyệt đối cho một giá trị, nhất là của những tác phẩm sáng tạo, trong việc đem đến sự tươi mới và cái nhìn độc đáo của bản thân người làm sáng tạo. Trách nhiệm của người làm sáng tạo, người đạo diễn là đem đến “cái mới” cho thế giới. Đây là một thách thức, một sự nguy hiểm với người khai sinh ra nó. Có thể thành phẩm không ăn khách, không quen thuộc, nhưng quan trọng nhất là chúng phải có dấu ấn cảm xúc. Và nếu người làm sáng tạo đã rung động nhưng không làm, thì ai sẽ khai sinh ra góc nhìn này?

Một số thông tin thêm:

  • Phim ‘Mùa hè chiều thẳng đứng’: https://vimeo.com/36224279
  • Sách ‘Transcendental Style in Film: Ozu, Bresson, Dreyer’
  • Sách ‘Hitchcock’ – François Truffault
  • Phim ‘The new world’ – Terrence Malick

Dentsu Redder Impact Academy
Wider Perspectives, Richer Souls, Better Humanity