Marketer Đỗ Duy Thanh
Đỗ Duy Thanh

Founder & CEO @ FNB DIRECTOR and Horeca Business School

Chuyển biến ngành dịch vụ F&B với sự tham gia của Masan và Kido

Chuyển biến ngành dịch vụ F&B với sự tham gia của Masan và Kido

Toàn văn bài chia sẻ của anh Đỗ Duy Thanh, Founder & CEO FNB Director về chủ đề được rất nhiều bạn đọc quan tâm trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19: “Khi mà các nhà đầu tư kinh doanh ngành F&B đang gặp rất nhiều khó khăn thì 2 tập đoàn hàng đầu về hàng tiêu dùng là Masan và Kido bước chân vào ngành dich vụ này. Liệu có những chuyển biến nào mới cho ngành F&B?” mời bạn đọc tham khảo nội dung bên dưới.

Trước khi làm rõ các câu hỏi trong chủ đề hôm nay, chúng ta cần thống nhất với nhau vài khái niệm để hiểu rõ thị trường ngành F&B:

  • Ngành F&B là viết tắt của Food and Beverage (Thực phẩm và Đồ uống), ngành này bao gồm tất cả các công ty liên quan đến sản xuất, chế biến, đóng gói, vận chuyển và phân phối hàng hoá ăn được – từ nông trại (hoặc nhà máy) đến bàn ăn.

  • Phân loại theo ngành hàng thì F&B bao gồm nhiều ngành hàng con như thực phẩm tươi sống, thực phẩm đông lạnh, sữa & sản phẩm từ sữa, đồ uống không cồn và có cồn, bánh kẹo...

  • Phân loại về mô hình kinh doanh thì ngành F&B lại phân thành: doanh nghiệp sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi hoặc sơ chế, chế biến), doanh nghiệp thương mại (phân phối, bán buôn, bán lẻ) và doanh nghiệp dịch vụ F&B. Trong đó, doanh nghiệp dịch vụ F&B là nhà hàng, quán ăn, quán nhậu, quán cafe, trà sữa... mà chúng ta có thể gọi chung là cửa hàng dịch vụ F&B
  • Cửa hàng dịch vụ F&B mang bản chất của một cửa hàng bán lẻ nhưng khác biệt ở chỗ thường có không gian để khách hàng trải nghiệm tại chỗ với sự phục vụ của nhân viên chế biến và nhân viên phục vụ.
  • Cửa hàng dịch vụ F&B theo chuỗi thường tồn tại ở nhiều tiêu chuẩn khác nhau như:
    • Flagship/ Signature/ Premium: Cửa hàng trải nghiệm dịch vụ kiểu mẫu thường có quy mô đầu tư lớn với yêu cầu diện tích từ 200m2 trở lên
    • Standard: Cửa hàng tiêu chuẩn khoảng 120-150m2
    • Kiosk: Quầy bán hàng hay cửa hàng nhỏ trong trung tâm thương mại hoặc tại phức hợp tiện lợi, mô hình này đỏi hỏi diện tích 60-80m2
    • Pop-up kiosk: Kiosk xuất hiện theo thời vụ
    • Xe đẩy, kiosk ven đường

 

Câu hỏi 1: Việc nhiều doanh nghiệp lớn như Masan hay Kinh Đô tham gia thị trường đồ uống có phải báo hiệu triển vọng tốt của thị trường không anh? Anh có dự dự đoán gì về triển vọng của ngành này trong thời gian tới?

Tôi có nghiên cứu về 2 tập đoàn này, họ là những tập đoàn hàng đầu về hàng tiêu dùng và kể cả việc sở hữu các thương hiệu hàng đầu trong ngành F&B. Quay lại mô hình chuỗi giá trị trong ngành F&B, các công ty thường mong muốn mở rộng từ nông trại đến bàn ăn. Điều này có vẻ hợp lý khi họ có tiềm lực tài chính, nhân lực và độ phủ thị trường tốt nên có thể tạo ra nhiều nước đi thú vị và mang đến trải nghiệm mới cho người tiêu dùng.

Trường hợp Masan và Phúc Long

Rất dễ để nhận thấy Masan đang có mặt bằng và khách hàng ở chuỗi Winmart+ và họ cũng sở hữu nhiều thương hiệu đồ uống đóng gói khác như: Wake Up, Vinacafé, DoDoHaBa, B’fast, Compact, Ruby, Vivant, Vĩnh Hảo, Sư Tử Trắng, Hổ Vằn. Như vậy, việc bắt tay với Phúc Long, Masan sẽ được hỗ trợ ở một số khía cạnh sau:

  • Với chuỗi Winmart: Tối ưu hoá chi phí mặt bằng, tăng sự tiện lợi cho khách hàng cũ, thu hút thêm khách hàng mới – nhóm khách hàng trẻ, dân văn phòng và khách hàng yêu thích Phúc Long. Theo thông tin từ báo chí thì Phúc Long sẽ chia sẻ 20% doanh thu cho cửa hàng Winmart+, điều này cũng hợp lý với chi phí thuê mặt bằng hiện hữu ở các đô thị. Tuy nhiên, cần thêm thời gian để xem cả hai bên sẽ triển khai thế nào về mô hình kết hợp này. Với diện tích khá giới hạn của các cửa hàng Winmart+ hiện tại, Phúc Long sẽ phục vụ với mô hình quầy bán hàng mang đi và có thể có một vài chỗ ngồi như các cửa hàng tiện lợi khác. Tại các siêu thị Winmart, không gian có thể lớn hơn, đáp ứng được lượng ghế ngồi nhiều hơn cho Phúc Long. Bên cạnh đó, có thể Masan sẽ phát triển mô hình siêu thị cỡ vừa bao gồm Winmart+ kết hợp Phúc Long trên cùng một toà nhà để mở rộng diện tích ngồi lại của Phúc Long.
  • Với các nhãn hiệu đồ uống đóng gói của Masan: Đây là những loại đồ uống có thể đưa vào bán trực tiếp trên thực đơn hoặc làm nền để phát triển các món đồ uống mới. Như vậy, sự phát triển của chuỗi Phúc Long cũng giúp tạo đầu ra cho nhóm sản phẩm này.

Quầy Phúc Long trong Winmart

  • Với Phúc Long: Họ sẽ nhanh chóng tăng điểm bán, tạo độ phủ thị trường. Đặc biệt tại thời điểm của Food Delivery trở nên rầm rộ thì điều này giúp Phúc Long chiếm lĩnh một thị trường rộng lớn hơn rất nhiều. Các thương hiệu trà, cafe đóng gói, đóng lon của Phúc Long cũng được ưu tiên trên kệ của Winmart và Winmart+.
  • Theo thông tin tôi mới nhận được thì cả hai đã cho ra mắt mô hình thí điểm đầu tiên tại Hà Nội và sẽ sớm ra mắt các điểm tiếp theo tại TP.HCM. Mô hình không chỉ tích hợp cả hai, mà còn có thêm Techcombank, một thành viên của Masan Group. Ở mô hình rộng tầm 100m2 này thì quầy bar Phúc Long rộng khoảng 10m2 và tất cả các quầy giao dịch, tính tiền của cả 3 thương hiệu đều nằm ngay cửa ra vào, khá thuận tiện cho khách hàng. Rõ ràng khi cả 3 thương hiệu hàng đầu bắt tay để triển khai các chương trình đồng hành thì khách hàng sẽ được hưởng lợi rất nhiều.

Trường hợp Kido với chuỗi Chuk Chuk

Tập đoàn Kido là chủ nhiều ngành hàng F&B như Kem (Merino, Celano), Sữa chua, Giải khát, Đông lạnh... Tập đoàn này đã quay lại mảng sản xuất bánh kẹo vốn là thế mạnh trước đây. Việc họ tập trung vào chuỗi cửa hàng bán lẻ là chiến lược dễ hiểu. Bước đi của Chuk Chuk theo tôi có thể chấp nhận được, vì nếu chỉ tiếp cận với các ngành hàng có sẵn và chủ yếu bán lẻ thì chưa mang lại lượng người dùng lớn, mà phải kèm thêm một vài loại đồ uống truyền thống và thời thượng như cà phê, trà và trà sữa cùng một số đồ uống khác. Nhưng chắc chắn họ sẽ có phương án tập trung thúc đẩy bán các sản phẩm cốt lõi.

Triển vọng thế nào sau những bước đi này?

  • Việc gắn kết chặt chẽ giữa công nghệ sản xuất, thương mại và dịch vụ trong ngành F&B có thể nói chưa khi nào trở nên gần gũi như lúc này. Với quy mô và năng lực sản xuất công nghiệp, các sản phẩm F&B cuối cùng khi đến tay người tiêu dùng sẽ đồng bộ hơn về mặt chất lượng, quy mô sản xuất lớn hơn dẫn tới giảm giá vốn nguyên vật liệu.
  • Các tập đoàn có tài chính và khả năng quản lý chuỗi tốt sẽ giúp chất lượng dịch vụ trở nên chuyên nghiệp hơn, từ đó có nhiều lựa chọn tốt hơn cho người tiêu dùng.

Kido mở chuỗi F&B

Câu hỏi 2: Masan kết hợp với Phúc Long có khoảng hơn 2.000 cửa hàng, Chuk Chuk dự định mở 1.000 cửa hàng, vậy thị trường có bị bão hoà không anh?

  • Chúng ta cần hiểu rõ rằng thị trường bão hoà là trạng thái khi khối lượng cung ứng trên thị trường đã được tối đa hoá. Ở điểm bão hòa, một doanh nghiệp chỉ có thể đạt được sự tăng trưởng bằng cách cải tiến sản phẩm mới, chiếm thị phần hiện có từ các đối thủ cạnh tranh, hoặc thông qua sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng nói chung.
  • Theo báo cáo từ Mordor Intelligence Inc, thị trường dịch vụ F&B Việt Nam đạt giá trị 24,62 tỉ USD vào năm 2020 và dự kiến ​​sẽ có ​​tốc độ tăng trưởng kép hàng năm ước tính là 8,65% trong giai đoạn 2021-2026. Với số liệu mà FNB Director dự đoán, năm 2020, cả nước hiện có khoảng 637.200 cửa hàng ăn uống, trong đó có khoảng 80% cửa hàng nhỏ, khoảng hơn 8.000 cửa hàng chuyên về dịch vụ thức ăn nhanh, hơn 25.000 cửa hàng cà phê, các quầy bar và trên 94.000 nhà hàng được đầu tư, phát triển một cách bài bản. Cho thấy, đây là một thị trường cực kỳ lớn dành cho tất cả người chơi.
  • Như vậy, thị trường cơ bản vẫn tăng đều hàng năm nhưng tỷ lệ tăng không đều cho từng phân khúc sản phẩm dịch vụ. Và cả 2 trường hợp nêu ra ở đây được coi là những mô hình có sự cải tiến nhất định, tập trung vào sự tiện lợi hoặc trải nghiệm mới cho khách hàng. Nên nếu có cách tiếp cận phù hợp cùng tiềm lực tài chính lớn thì cả hai có thể chiếm được một thị phần quan trọng của các đối thủ hiện hữu cũng như thu hút thêm được nhóm khách hàng mới.

Thị trường cơ bản vẫn tăng đều hàng năm nhưng tỷ lệ tăng không đều cho từng phân khúc sản phẩm dịch vụ.

  •  Theo quan điểm cá nhân, các tập đoàn này sẽ phải rất nỗ lực mới đạt được con số nêu trên, vì khi triển khai thực tế sẽ gặp rất nhiều thách thức. Nếu quy mô kiosk nhỏ và xe đẩy, thì dễ dàng có được con số trên, nhưng khi tổ chức ở quy mô cửa hàng thì sẽ phức tạp hơn nhiều lần. Và nếu triển khai theo hình thức nhượng quyền sẽ nhanh hơn rất nhiều so với việc tự thực hiện. Nhưng nhược điểm của nhượng quyền là tính đồng bộ, khả năng kiểm soát hệ thống và chất lượng dịch vụ.
  • Phúc Long đã chứng minh được về hiệu quả và trải nghiệm người dùng, nên khả năng mở rộng quy mô nhanh hơn nhiều. Còn Chuk Chuk là mô hình khá mới nên sẽ cần nhiều thời gian để thu hút trải nghiệm người dùng và hoàn thiện mô hình.

Câu hỏi 3: Với sự tham gia của các “ông lớn”, liệu còn có cơ hội cho các startup hay không?

Là một giảng viên đào tạo quản trị và khởi nghiệp ngành F&B nhiều năm nay, tôi nhận thấy dù các tập đoàn lớn có tham gia ngành này nhiều thế nào đi chăng nữa thì vẫn còn rất nhiều thị trường ngách cho những người khởi nghiệp.

Chuỗi có lợi thế về thương hiệu, độ phủ và tiêu chuẩn dịch vụ nhưng do phải vận hành theo quy trình và có nhiều phân cấp quản lý nên tính linh hoạt trong đáp ứng yêu cầu cá nhân hoá của khách hàng sẽ hạn chế hơn, mỗi quyết định của họ sẽ mất thời gian hơn so với các chủ đầu tư nhỏ lẻ. Chủ đầu tư tham gia quản lý vận hành thì việc quyết định sẽ diễn ra trong vài phút, còn đối với chuỗi thì mất ít nhất vài tuần cho đến vài tháng.

Bên cạnh đó, các chuỗi đầu tư vào cửa hàng lớn thì gặp nhiều thách thức trong việc lựa chọn mặt bằng, vì họ phải cân đối bài toán tài chính nên chỉ chọn ở những nơi có lượng khách hàng đủ lớn, phổ biến là các tuyến đường chính ở khu đô thị. Như vậy, những cung đường nhỏ hơn, vùng ngoại vi đô thị hoặc các thị trấn sẽ là cơ hội lớn cho giới startup.

Dù các tập đoàn lớn có tham gia ngành này nhiều thế nào đi chăng nữa thì vẫn còn rất nhiều thị trường ngách cho những người khởi nghiệp.

Với đồ uống thì các chuỗi sẽ cố gắng sử dụng nguyên vật liệu là thực phẩm công nghiệp đã qua xử lý để đảm bảo chất lượng cũng như giảm hao hụt nhưng điều đó sẽ đi ngược với xu hướng quan tâm sức khoẻ của người tiêu dùng như dùng đồ tươi và không có chất bảo quản... Hoặc một ví dụ khác là các chuỗi đồ uống rất khó để triển khai đồ ăn văn phòng với đa dạng món, đa phần chỉ có bánh ngọt và bánh mì nhưng rõ ràng đây lại là lợi thế của chủ đầu tư khởi nghiệp.

Câu hỏi 4: Nhiều người nói, thị trường dịch vụ F&B của Việt Nam giống như mỏ vàng? Anh nghĩ sao về điều này?

Thị trường quy mô lớn

  • Như tôi có chia sẻ ở trên, thị trường dịch vụ F&B có quy mô rất lớn và bao phủ toàn quốc, từ thành thị đến nông thôn và chỉ cẩn ở đâu có khu dân cư, ở đó chắc chắn sẽ có những mô hình dịch vụ F&B.
  • Với quy mô thị trường lớn như vậy nhưng ảnh hưởng của dịch bệnh cũng khiến nhiều hàng quán rời khỏi cuộc chơi. Một số khác đã nhanh chóng chuyển đổi từ bán hàng tại chỗ qua gọi món và giao hàng trực tuyến. Việc chuyển đổi này phù hợp với những sản phẩm có định giá phổ thông và có thể sử dụng với tần suất cao như thức ăn văn phòng, trà, cafe...
  • Giai đoạn dịch bệnh diễn ra khiến các doanh nghiệp quan tâm hơn đến dòng tiền, quản trị rủi ro và nâng cao vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm. Khách hàng cũng nhận thức rõ hơn về lựa chọn thực phẩm đồ uống đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và các sản phẩm tốt cho sức khoẻ.
  • Xu hướng đầu tư kinh doanh sau những giai đoạn dịch sẽ có nhiều chuyển biến:
    • Khi thị trường được mở cửa hoạt động trở lại, tôi tin chắc mặc dù mới trải qua giai đoạn khó khăn về tài chính nhưng các thương hiệu sẽ tăng cường truyền thông, ưu đãi để kéo khách trở lại thói quen sinh hoạt và ăn uống bên ngoài. Nên nhớ là trong thời kỳ dịch bệnh, khách hàng chuyển đổi hầu hết thói quen ăn uống từ bên ngoài thành gọi món trực tuyến hoặc tự chế biến.
    • Sẽ có nhiều người chơi mới ở phân khúc gọi món trực tuyến, đó chính là các nhà cung ứng thực phẩm, nguyên vật liệu cho ngành dịch vụ F&B. Đây là nhóm doanh nghiệp chịu ảnh hưởng chung vì doanh thu phần lớn đến từ các cửa hàng dịch vụ này. Trong mùa dịch họ đã phải tự tìm cách chuyển đổi bằng cách tự sơ chế, chế biến để bán trực tiếp đến thực khách. Ví dụ, nhà cung cấp nguyên liệu cho nhà hàng Nhật, tự tạo ra thực đơn sashimi, sushi cũng như các món Nhật khác giao tận nhà cho khách. Nhà cung cấp thịt bò đông lạnh ra mắt món beefsteak hấp dẫn giao tận nhà hay công ty cung cấp nguyên liệu pha chế thì triển khai bán đồ uống pha chế trực tiếp đến khách...
    • Thị trường sôi động với các mô hình kinh doanh phổ thông, định giá vừa phải và đề cao khả năng tiếp cận thị trường bằng cả phục vụ tại chỗ và đặt món trực tuyến.
    • Các sản phẩm xanh, sạch, ăn chay và tốt cho sức khoẻ sẽ được khách hàng quan tâm.
    • Các doanh nghiệp sẽ nỗ lực thay đổi phương pháp chế biến mang tính ứng dụng công nghệ, máy móc để giảm dần vai trò của lực lượng lao động, xu hướng giảm các món ăn chế biến cầu kỳ sang những món được chế biến đơn giản hơn nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
    • Các nhà hàng định hướng phục vụ tại chỗ sẽ xây dựng thêm trải nghiệm mới trong tình hình mới như: phục vụ phòng riêng hoặc khu vực riêng tư, giảm tiếp xúc với nhân sự phục vụ và có thể sẽ nghiên cứu phát triển mô hình tự phục vụ hoặc phục vụ hỗ trợ, phát triển thêm dịch vụ Outside Catering (dịch vụ tiệc tại gia).
    • Các cửa hàng F&B sẽ cố gắng phát triển kênh tự giao hàng thay vì lệ thuộc vào các ứng dụng giao thức ăn vì chi phí cao.
    • Những người tham gia mới vào thị trường sẽ nỗ lực tìm kiếm mô hình giảm sự lệ thuộc vào mặt bằng. Bên cạnh đó, những người triển khai mô hình bắt buộc phải thuê mặt bằng lớn sẽ đưa các điều khoản về giảm chi phí mặt bằng nếu dịch bệnh diễn ra.

Các cửa hàng F&B sẽ cố gắng phát triển kênh tự giao hàng thay vì lệ thuộc vào các ứng dụng giao thức ăn vì chi phí cao
Nguồn: VTV

Nhưng nhiều thách thức với người chơi mới

  • Có thể nói kinh doanh dịch vụ F&B đang trở thành một xu hướng, đặc biệt là những người khởi nghiệp. Dường như khi nói đến khởi nghiệp thì dịch vụ F&B là một trong những mô hình được nhắc đến nhiều nhất. Sự hào nhoáng bề ngoài của một cửa hàng dịch vụ F&B là ước ao của rất nhiều người. Để vận hành một cửa hàng dịch vụ F&B, bạn sẽ phải quản lý một chuỗi hoạt động từ sản xuất/ chế biến, dịch vụ, bán lẻ và quan trọng nhất là quản lý con người.
  • Như chia sẻ ở trên thì khoảng 80% cơ sở kinh doanh F&B có quy mô nhỏ nên chưa có thống kê nào ghi nhận chính xác tỷ lệ thành bại của người tham gia kinh doanh. Tuy nhiên, theo ghi nhận của FNB Director từ năm 2018 thì khoảng 50-60% cơ sở dịch vụ F&B có thể phải đóng cửa trong năm đầu tiên hoạt động. Và tỷ lệ thành công, tức là có khả năng thu hồi vốn và tỷ suất lợi nhuận trung bình từ 15%/vốn đầu tư/năm trở lên, ước tính chỉ có khoảng 20%. Câu nói “Ghét ai thì xúi người đó mở nhà hàng/ quán cafe” đã thể hiện những thách thức khi tham gia lĩnh vực này.
  • Nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ thất bại lớn khi tham gia ngành dịch vụ F&B:
    • Thiếu kiến thức và sự chuẩn bị cho việc kinh doanh ngành này (các bạn trẻ chỉ nhận thấy được hào nhoáng bên ngoài mà thiếu sự tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi đầu tư chiếm tỷ lệ cao)
    • Thiếu các kế hoạch kinh doanh mà chỉ làm theo cảm tính, thói quen
    • Mô hình kinh doanh chưa phù hợp thị trường hoặc mô hình không tạo được điểm nhấn vì chủ yếu là sao chép các đối thủ trên thị trường
    • Người đầu tư không chuyên tâm và thường đứng hai chân, một chân kinh doanh dịch vụ F&B, chân còn lại vẫn tham gia các ngành khác
    • Không có khả năng kiểm soát chất lượng sản phẩm và dịch vụ
    • Không có phương pháp thu hút khách hàng
    • Khả năng quản lý nhân viên kém
    • Lựa chọn địa điểm chưa phù hợp
    • Nguồn lực tài chính chưa phù hợp với mô hình

Ngành F&B có thị trường rộng lớn nhưng sẽ có nhiều thách thức cho người chơi mới.

Tóm lại, ngành dịch vụ F&B có thị trường rộng lớn nhưng sẽ có nhiều thách thức cho người chơi mới. Cách tiếp cận bài bản, chuyên nghiệp trong kinh doanh như chuẩn bị kiến thức ngành nghề, lên kế hoạch bài bản, tài chính tương đối thoải mái và đầu tư nhiều vào con người sẽ tạo lợi thế cho các bạn trẻ khởi nghiệp.

Câu hỏi 5: Với sự tham gia của các gương mặt mới, liệu ‘miếng bánh’ F&B có bị cạnh tranh khốc liệt, đặc biệt là các thương hiệu 100% nước ngoài?

Như tôi có chia sẻ ở trên, thị trường F&B lớn nhưng tốc độ mở rộng sẽ chậm hơn chúng ta nghĩ. Người tiêu dùng chủ yếu thay đổi hành vi từ dùng thương hiệu này qua sử dụng thương hiệu khác, từ trải nghiệm này qua trải nghiệm mới họ cảm thấy phù hợp hơn.

Những thương hiệu nào thu hút được càng nhiều khách hàng trung thành sẽ có cơ hội tồn tại tốt hơn. Nhiều thương hiệu nước ngoài tồn tại trong ngành cũng nhiều năm, nhưng cũng rất nhiều trong số đó vẫn chưa thực sự hoạt động hiệu quả về mặt tài chính. Cùng với tác động mạnh mẽ của dịch bệnh, bức tranh thị trường sẽ có nhiều thay đổi. Khi các thương hiệu ngoại cũng phải thay đổi để gồng gánh qua giai đoạn dịch bệnh thì việc những tay chơi mới có sức mạnh tài chính cũng tạo ra bức tranh thú vị sắp tới. Chúng ta cùng chờ đợi xem các chuỗi dịch vụ F&B của người Việt sẽ thâm nhập thị trường bằng cách nào.

Trong thế giới phẳng hiện tại, khái niệm về thương hiệu nước ngoài khá phức tạp vì 3 lý do chính sau:

  1. Thương hiệu xuất phát từ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam bằng cách nhượng quyền hoặc tổ chức công ty con tại Việt Nam để triển khai kinh doanh
  2. Thương hiệu xuất phát từ Việt Nam nhưng chủ sở hữu chủ yếu hoặc toàn bộ của các công ty nước ngoài
  3. Thương hiệu xuất phát từ Việt Nam nhưng chủ yếu mang yếu tố và hình ảnh từ nước ngoài, hầu như không mang bất cứ đặc điểm nào của người Việt và văn hoá Việt

Như vậy, nếu xét ở góc độ thương hiệu 100% xuất phát từ nước ngoài như khía cạnh số 1 ở trên, thì phổ biến hơn cả vẫn là thương hiệu nước ngoài chọn một đối tác nhượng quyền tại Việt Nam, đối tác này sẽ tổ chức kinh doanh và mở rộng thị trường cho thương hiệu theo những tiêu chuẩn cam kết. Theo số liệu từ Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương đến 6/2021, có tổng cộng 109 thương hiệu đăng ký nhượng quyền vào Việt Nam liên quan đến dịch vụ hoặc bán lẻ F&B.

Nhiều thương hiệu F&B của nước ngoài đang tham gia thị trường trong nước
Nguồn: FNB Director

Với hình thức nhượng quyền, thượng hiệu nước ngoài sẽ tạo được độ phủ trên thị trường hay không lệ thuộc khá nhiều vào năng lực doanh nghiệp nhận nhượng quyền (tài chính, nhân lực, sự am hiểu thị trường...). Các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, người tiêu dùng có tâm lý sính ngoại nên đó là một trong những cơ hội cho thương hiệu 100% nước ngoài. Tuy nhiên, những thương hiệu này thường gặp 3 thách thức lớn khi tham gia thị trường Việt:

  • Khẩu vị các chuỗi phải tuân thủ theo tiêu chuẩn chung của toàn cầu, đặc biệt là ảnh hưởng nhiều của đất nước xuất xứ. Chính vì vậy, khả năng điều chỉnh theo gu ăn uống, khẩu vị của thị trường khá khó khăn. Ngay cả tại thị trường nội địa, mỗi vùng miền có thói quen và khẩu vị ăn uống rất khác nhau. Chiến lược địa phương hoá, cho phép điều chỉnh thực đơn theo hướng phù hợp thị trường nội địa sẽ cần khá nhiều thời gian và khả năng thương lượng của doanh nghiệp nhận nhượng quyền mới có thể triển khai.
  • Tiêu chuẩn mặt bằng của thương hiệu nước ngoài khá khắt khe và dĩ nhiên sẽ dẫn đến chi phí đầu tư mặt bằng cao hơn hẳn so với một cửa hàng tương đương do người Việt xây dựng.
  • Định giá của món ăn đồ uống thường có xu hướng cao hơn thị trường nội địa, dẫn đến hạn chế việc mở rộng ra nhiều phân khúc khách hàng.

Ví dụ tiêu biểu cho những thách thức này là việc hoạt động không hiệu quả của một số thương hiệu như Burger King hay chuỗi cafe NYDC... và rất nhiều thương hiệu nước ngoài khác không đạt mục tiêu về số lượng cửa hàng dự kiến sẽ mở.

NYDC một thời thu hút giới trẻ Sài Gòn

 

Như vậy, cuộc chiến trong ngành F&B chia thành 2 nhóm, nhóm thứ nhất là nhóm doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và nhóm thứ hai là các doanh nghiệp, mô hình kinh doanh vừa và nhỏ. Trong nhóm thứ nhất, tính cạnh tranh khá rõ ràng giữa các chuỗi thương hiệu Việt với các chuỗi thương hiệu nước ngoài. Nhóm thứ hai là cuộc chiến gần như nội bộ trong nước với các thương hiệu gia đình, thương hiệu có quy mô một vài cửa hàng, giới khởi nghiệp và đâu đó là một vài thương hiệu nước ngoài nhượng quyền với quy mô nhỏ. Nếu nắm được những thuận lợi và thách thức, các thương hiệu Việt sẽ chọn được cách tiếp cận thị trường và đưa ra mô hình phù hợp, từ đó có thể có chỗ đứng riêng trên thị trường.