Marketer Hoàng Thy
Hoàng Thy

Ambivert PurposeDriven Brand Marketer Social Worker Lifelong Learner @ OneStop NEST Academy

Tiết lộ 10 sự thật về Marketing do đại dịch tạo ra

Tiết lộ 10 sự thật về Marketing do đại dịch tạo ra

10 sự thật quan trọng về Marketing do các thách thức của đại dịch tạo ra, buộc chúng ta phải hành động theo những nguyên tắc mới.

1.

Sự thật cũ: Tiếp thị bắt đầu bằng việc hiểu khách hàng

Sự thật mới: Tiếp thị bắt đầu bằng việc hiểu phân khúc khách hàng (Customer Segment)

Đại dịch COVID-19 củng cố lại điều chúng ta đã biết từ lâu: Nhãn hàng phải truyền thông bằng những thuật ngữ chính xác, nhắm đến những nhóm khách hàng cụ thể, căn cứ theo hoàn cảnh riêng và những gì thực sự liên quan đến họ. Điều đó có nghĩa là cần hiểu rõ tình hình tại chỗ, theo từng quốc gia, từng bang, từng thành phố. Đối với một số ngành hàng như ngân hàng, quán ăn, hoặc chuỗi bán lẻ, thậm chí còn cần được truyền thông một cách “may đo” cho từng cửa hàng.

Thông điệp tiếp thị cần mang tính liên quan cá thể, phù hợp với hoàn cảnh và hệ giá trị của từng cá nhân, không chỉ đơn thuần căn cứ theo các chỉ số nhân khẩu học như tuổi, giới tính...

Ngoài yếu tố địa lý, các thông điệp tiếp thị cần mang tính liên quan cá thể, phù hợp với hoàn cảnh và hệ giá trị của từng cá nhân, không chỉ đơn thuần căn cứ theo các chỉ số nhân khẩu học như tuổi, giới tính... Để xây dựng được sự kết nối mang tính cá nhân và con người, trong bất cứ một thông điệp thương mại nào cũng đòi hỏi phải xác định được các phân khúc khách hàng theo khía cạnh đa chiều, có tác động đến hành vi mua sắm của họ, từ tâm lý học tiêu dùng cho đến các đặc tính riêng vốn có.

Theo Chỉ số Người tiêu dùng Tương lai của Earnst & Young (EY Future Consumer Index), trên cơ sở nghiên cứu 5 “làn sóng” tiêu dùng đầu tiên của 14.500 cá nhân tại 20 quốc gia, kể từ khi đại dịch bắt đầu, có 5 tổ hợp người tiêu dùng sau:

  • Hợp túi tiền là quan trọng nhất – Affordability First (chiếm 32%): Nhóm này sống trong phạm vi ngân sách và nguồn lực của họ, ít quan tâm đến thương hiệu, mà chủ yếu quan tâm đến chức năng/ tiện tích của sản phẩm.
  • Sức khỏe là quan trọng nhất – Health First (25%): Bảo vệ sức khoẻ của bản thân và gia đình, lựa chọn những sản phẩm mà họ tin là an toàn và giảm thiểu các rủi ro liên quan đến việc mua hàng.
  • Hành tinh là quan trọng – Planet First (16%): Nhóm người này luôn cố gắng giảm thiểu tác động của mình đến môi trường và thích mua các nhãn hàng phản ánh hệ giá trị của họ.
  • Xã hội là quan trọng – Society First (15%): Nhóm người này mong muốn chung tay để tạo lập những mục tiêu cao đẹp cho xã hội, mua hàng từ những tổ chức, doanh nghiệp mà họ thấy chân thật và minh bạch.
  • Trải nghiệm là quan trọng – Experience First (12%): Nhóm người này sống cho hiện tại, hưởng thụ tối đa cuộc sống, họ luôn sẵn lòng thử dùng những sản phẩm/ thương hiệu và những trải nghiệm mới.

Sử dụng phân khúc khách hàng và cá tính khách hàng giúp Marketer thấu hiểu họ hơn khi xây dựng các chiến lược truyền thông, hoặc các giải pháp Marketing sáng tạo. Hữu ích hơn nữa, người làm Marketing có thể tiếp tục sử dụng những thông tin này cho toàn bộ hành trình của người tiêu dùng.

2.

Sự thật cũ: Cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh

Sự thật mới: Cạnh tranh với trải nghiệm tốt nhất gần đây nhất của khách hàng

Ngay cả trước đại dịch COVID-19, kỳ vọng của người tiêu dùng đã tăng mạnh so với trước. Thế hệ Z trưởng thành khi công nghệ đã liên kết vào mọi ngõ ngách trong cuộc sống của họ. Các công ty bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng như Glossier hay Parachute, đã khiến nhu câu về cá nhân hoá (Hyper Personalization) tăng cao, do họ đặc biệt giỏi trong việc phân tích và sử dụng dữ liệu cá nhân của khách hàng.

Tiết lộ 10 sự thật về Marketing do đại dịch tạo ra

Nguồn: Abit

Khi đại dịch xảy ra, biến đổi số tăng tốc chóng mặt. Điều này khiến người tiêu dùng càng thêm kỳ vọng vào các doanh nghiệp thông qua trải nghiệm được số hoá hơn. Theo Carla Hassan, CMO của Ngân hàng Citi, khách hàng giờ đây không đơn thuần chỉ kỳ vọng một giao dịch số không sự cố, mà họ mong đợi doanh nghiệp, với các dữ liệu cá nhân đã có từ khách hàng, phải cung cấp được các trải nghiệm cá nhân hoá và tiên đoán được nhu cầu của họ trong toàn bộ hành trình giao dịch.

Các doanh nghiệp cần theo đuổi 3 chiến lược sau để đảm bảo đáp ứng được kỳ vọng ngày càng lớn của người tiêu dùng về trải nghiệm khách hàng:

  • Đưa các chỉ số về nhãn hàng (Brand Scores) thành KPI chính cho mọi bộ phận có giao tiếp với khách hàng, lý tưởng nhất là dựa trên kết quả phân tích tức thời (Real Time).
  • Xây dựng nền tảng công nghệ và dữ liệu phù hợp để hỗ trợ các tình huống sử dụng quan trọng trong suốt hành trình khách hàng.
  • Đồng nhất mọi mục tiêu cá nhân và nhóm cho suốt hành trình khách hàng giúp mọi “bất đồng” giữa các bộ phận như tiếp thị, bán hàng, dịch vụ khách hàng... không bị lộ diện trước người tiêu dùng cuối.

3.

Sự thật cũ: Khách hàng hy vọng doanh nghiệp có cái họ muốn

Sự thật mới: Khách hàng kỳ vọng doanh nghiệp có đúng cái họ muốn

Do kỳ vọng của khách hàng ngày càng cao, doanh nghiệp cần liên tục tạo giá trị gia tăng cho trải nghiệm khách hàng, ở cả mô hình B2B và B2C. Người tiêu dùng hiện nay kỳ vọng mọi trải nghiệm sẽ tuyệt đối trôi chảy, đón ý nhu cầu khách hàng, liên quan tới khách hàng, luôn kết nối và không bao giờ bị thất vọng.

Để tạo được những trải nghiệm như vậy, doanh nghiệp cần đặt dữ liệu và công nghệ vào vị trí trung tâm. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần bổ sung cho mình năng lực học tự động (Machine Learning) và/ hoặc trí tuệ nhân tạo (AI). Tại sao lại vậy? Bởi dữ liệu cho phép doanh nghiệp tạo nên những trải nghiệm liên quan hơn cho khách hàng, xét theo 1 hoặc hơn 1 trong số 4 tiêu chí (The Four C's) dưới đây:

  • Content – Nội dung: Có thể cung cấp qua các trải nghiệm như email hoặc các ứng dụng.
  • Commerce – Thương mại: Qua mô hình cửa hàng, Ecommerce, hoặc kết hợp cả 2.
  • Community – Cộng đồng: Ví dụ như tập hợp các khách hàng B2B tại một hội chợ thương mại ảo (Virtual), tổ chức webinar hoặc xưởng sửa chữa sản phẩm qua mạng cho người tiêu dùng.
  • Convenience – Tiện lợi: Tặng khách hàng voucher mua hàng hoặc các lợi ích dành cho khách hàng trung thành.

Tiết lộ 10 sự thật về Marketing do đại dịch tạo ra

Nguồn: Security Today

Hiện nay, hầu hết cả 4 tiêu chí này đều được cung cấp cho khách hàng theo cách “một cỡ cho tất cả – one size fits all”. Nhưng khi người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi được đáp ứng nhu cầu với mức độ cá nhân hoá cao hơn, doanh nghiệp sẽ cần sử dụng dữ liệu và trí tuệ (Intelligence) để đưa ra các quyết định chính xác hơn, mang lại cho khách hàng những trải nghiệm giao tiếp có ích, nhằm xây dựng mối quan hệ kết nối mang tính con người hơn với nhãn hàng.

4.

Sự thật cũ: Theo đuổi khách hàng cũng giống như hẹn gặp người yêu

Sự thật mới: Theo đuổi khách hàng cũng giống như hẹn hò trên mạng

Trong một thời gian dài, tiếp thị chủ yếu là chi tiền để tiếp cận thật nhiều người (Mass Reach) hoặc một nhóm đối tượng cụ thể (Targeted Reach) với chi phí mua Media tốt nhất và hy vọng họ sẽ trở thành khách hàng. Thực chất cũng như chúng ta đi hết tiệc này rồi đến quán bar khác với hy vọng sẽ tìm được ý chung nhân cho mình. Đó là thế giới của tuỳ hứng, may mắn tình cờ, và rất tốn thời gian gặp gỡ trực tiếp.

Thế giới hẹn hò trên mạng hay qua ứng dụng lại khác. Ở đó, đi tìm ý chung nhân sẽ không còn là may mắn hay tình cờ của số phận, mà là dữ liệu và thuật toán. Theo thuật ngữ Marketing, chúng ta đã chứng kiến sự dịch chuyển từ tiếp thị nhãn hàng (Brand Marketing) để tạo tiếp cận (Build Reach) sang tiếp thị vì hiệu suất (Performance Marketing) để có được sự quan tâm của khách hàng. Sự bùng nổ các kênh Digital do tác động của đại dịch COVID-19 đã đẩy nhanh xu thế này.

Muốn được khách hàng quan tâm cần có sự cân bằng giữa tiếp thị nhãn hàng (Brand Marketing) và tiếp thị vì hiệu suất (Performance Marketing).

Tuy nhiên, mặc dù tiếp thị vì hiệu suất có vị trí quan trọng và mạnh trong chiến lược tiếp thị, các CMO hàng đầu nhận thấy rằng để tạo được kết quả tốt nhất, cần có sự kết hợp cân bằng giữa tiếp thị nhãn hàng và tiếp thị vì hiệu suất. Và các doanh nghiệp cần nỗ lực để tránh trường hợp thiên vị chỉ vì dễ có được số đẹp để chứng minh, nhưng lại không hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp đã yêu cầu bộ phận quản lý quan hệ khách hàng (CRM) làm việc mật thiết hơn với bộ phận Media nhằm giúp Media dễ nhìn thấy bức tranh tổng thể và hiểu rõ hơn hiệu quả đầu tư. CRM, nơi nắm giữ dữ liệu về bên thứ nhất (First Party Data), tức là dữ liệu về khách hàng mà doanh nghiệp sở hữu (với sự chấp thuận của khách hàng), chính là bộ phận có khả năng thúc đấy các sáng kiến hiệu quả cao như coupons, cá nhân hoá, hoặc tiếp thị qua email.

Cũng chính dữ liệu này sẽ tạo ra hiệu quả cao hơn cho chiến lược Media, nhất là với Digital Media và hình thức truyền thông đến các địa chỉ cụ thể khác, cho phép doanh nghiệp tiếp cận trực diện với khách hàng tiềm năng. Khi dữ liệu về bên thứ ba ngày càng mất dần giá trị, do những thay đổi về luật chơi có hiệu lực từ tháng 1/2022, các chuyên gia tiếp thị hiện đang ngày càng giỏi hơn trong việc thiết kế các cuộc “hẹn hò” trên mạng. Ngay cả khi chiến lược “hẹn hò”, “chọn mục tiêu” biến đổi do luật chơi mới, các doanh nghiệp vẫn phải dành chỗ cho cả tiếp thị nhãn hàng và tiếp thị vì hiệu suất. Đơn giản là hai chiến lược này có hiệu quả hơn khi được thực hiện cùng nhau.

5.

Sự thật cũ: Khách hàng phải ở vị trí trung tâm trong chiến lược Marketing

Sự thật mới: Khách hàng phải ở vị trí trung tâm trên suốt hành trình khách hàng

Khái niệm lấy khách hàng làm trung tâm không mới. Tuy nhiên, các bộ phận có chức năng giao kết với khách hàng thường thiếu liên kết với nhau do “chính trị” nội bộ, do cơ cấu tổ chức, công nghệ hoặc khoảng cách địa lý. Câu hỏi ở đây là: Cần làm gì để có thể che giấu những “trục trặc” nội bộ đó trước khách hàng – những người nghiễm nhiên cho rằng thương hiệu phải thấu hiểu họ trên mọi phương diện? Hầu hết chúng ta đều đã có dịp gọi điện cho bộ phận dịch vụ khách hàng, nói chuyện với tổng đài... và nhận thấy thông tin họ có không hoàn toàn thống nhất với cửa hàng nơi chúng ta mua hàng, hoặc ngược lại.

Tiết lộ 10 sự thật về Marketing do đại dịch tạo ra

Nguồn: Vietnam Biz

Thực chất, Marketing thường chỉ là sự bắt đầu của mối quan hệ với khách hàng. Ví dụ, trong một doanh nghiệp B2C, Marketer cần đi qua hành trình, từ lôi cuốn, thuyết phục khách hàng mua hàng bằng cách gián tiếp hoặc trực tiếp và rồi hy vọng sẽ giữ chân để họ trở thành người nói tốt cho sản phẩm của mình, cuối cùng có thể bán những sản phẩm khác của doanh nghiệp hoặc dòng sản phẩm cao hơn cho họ. Marketing cần được xem xét trong tổng thể từ A đến Z của toàn bộ hành trình đó và khi cần tìm cách kết nối các chặng nhỏ với nhau.

Một sai lầm thường gặp là cho rằng chỉ cần sắp xếp lại tổ chức là có thể giải quyết được bài toán này. Trên thực tế, điều quan trọng nhất cần làm là phải xem xét kỹ mô hình hoạt động, các quy trình, công nghệ, nhân sự, mô hình dữ liệu và các KPIs để tìm ra những phương cách đúng, giúp liên kết các bộ phận với nhau một cách khách quan xung quanh nhu cầu của khách hàng, rồi trên cơ sở đó mới thực hiện những thay đổi cần thiết.

6.

Sự thật cũ: Quan hệ khách hàng rất quan trọng

Sự thật mới: Quan hệ khách hàng là tất cả

Rõ ràng, các doanh nghiệp cần phải xây dựng quan hệ với khách hàng dựa trên sự tin cậy. Ví dụ, quảng cáo là để đưa ra một lời hứa của nhãn hàng; sau đó, trách nhiệm của sản phẩm, dịch vụ khách hàng và trải nghiệm khách hàng là để thực thi lời hứa đó.

Nhưng COVID-19 đã đưa yếu tố quan hệ lên một tầm quan trọng mới, đặc biệt với mô hình B2B. Đối mặt với môi trường bán hàng ảo (Virtual), đội ngũ bán hàng với các mối quan hệ sẵn có đã duy trì được việc bán hàng trên cơ sở tận dụng những mối quan hệ này.

Doanh nghiệp cần phải xây dựng quan hệ với khách hàng dựa trên sự tin cậy.

Trong khi đó, việc tìm kiếm khách hàng mới đòi hỏi một loạt những kỹ năng mới, tập trung chủ yếu vào việc bán các giải pháp chứ không phải bán sản phẩm. Trong cả hai trường hợp, độ tin cậy và tính liêm chính của người bán đóng vai trò cốt lõi cho việc bán hàng. Điều này buộc các giám đốc bán hàng và tiếp thị của các doanh nghiệp B2B phải nghiêm túc “phân lại vai” cho đội ngũ nhân sự, tìm kiếm những người phù hợp nhất cho việc xây dựng và nuôi dưỡng quan hệ trong thế giới online mới này, vì đó là 1 thế giới ít dựa vào sự “duyên dáng, hấp dẫn” của người bán hàng, mà chủ yếu dựa vào giải pháp và khả năng thấu hiểu khách hàng thực sự. Độ tin cậy sẽ được xây dựng (và mang lại phần thưởng) cho những ai biết lắng nghe nhu cầu của khách hàng, để rồi tạo ra những giải pháp đáp ứng được các nhu cầu đó.

Với mô hình B2C, độ tin cậy cũng đóng vai trò to lớn. Đó là cơ sở cho mọi giao dịch trao đổi giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do các doanh nghiệp ngày càng dựa vào dữ liệu cá nhân thu thập được với sự chấp thuận của khách hàng, nên không chỉ cần tuân thủ theo đúng quy định về bảo vệ quyền riêng tư của khách hàng và đảm bảo dữ liệu được quản lý an toàn, mà còn có cơ hội giúp khách hàng thêm trung thành. Đồng thời, doanh nghiệp cũng tạo ra được sự khác biệt với đối thủ bằng cách xây dựng những giao diện minh bạch hơn, cho phép khách hàng kiểm soát được tính bảo mật các dữ liệu cá nhân. Người tiêu dùng có thể đưa ra những lựa chọn tốt hơn, nếu họ biết rõ họ đang đồng ý chia sẻ gì với doanh nghiệp và chính sự minh bạch đó giúp khách hàng tin cậy doanh nghiệp nhiều hơn.

7.

Sự thật cũ: Linh hoạt (Agility) là 1 quy trình công nghệ

Sự thật mới: Linh hoạt là cách thức tiếp cận tiếp thị hiện đại

Những lợi ích của các chu kỳ linh hoạt (Agile Cycles) đối với sự phát triển của công nghệ, so với cách tiếp cận tuyến tính hoặc dãy số đã được đề cập đến từ lâu. Đại dịch COVID-19 khiến ngành tiếp thị áp dụng cách tiếp cận linh hoạt tương tự và đây là xu hướng không thể đảo ngược. Do khủng hoảng đại dịch, các doanh nghiệp có thể nhanh chóng phát hiện thông điệp truyền thông không phù hợp, hoặc chuỗi cung ứng không có khả năng giao hàng, dẫn đến khủng hoảng về quảng cáo hoặc PR (ví dụ 1 TVC quảng cáo chiếu cảnh đông người tụ tập bị xem là coi thường quy định giãn cách xã hội).

Trong bối cảnh đó, các quy trình sáng tạo quảng cáo mất nhiều thời gian, chu kỳ vạch kế hoạch ngân sách tiếp thị theo từng năm bỗng dưng trở nên lỗi thời, mọi quy trình xét duyệt theo kiểu truyền thống trở thành yếu tố cản trở kinh doanh. Hậu quả “may mắn” của đại dịch chính là sự xuất hiện của tinh thần “linh hoạt trong tiếp thị – Marketing Agility” và nhiều khả năng tinh thần này sẽ trở thành bản chất của Marketing. Cách suy nghĩ này đồng nghĩa với việc liên tục lắng nghe người tiêu dùng, bắt mạch nhu cầu khách hàng, không những chỉ để phục vụ cho Marketing, mà còn giúp cho toàn doanh nghiệp nắm bắt được xu thế thời đại trong suy nghĩ đó. Đồng thời, chu kỳ đưa ra quyết định sẽ nhanh hơn và các khâu sáng tạo, lập ngân sách, chọn Media sẽ linh hoạt hơn.

Tiết lộ 10 sự thật về Marketing do đại dịch tạo ra

Nguồn: Growth Automation

8.

Sự thật cũ: Thương hiệu phải đại diện những sản phẩm tuyệt vời

Sự thật mới: Thương hiệu phải đại diện những giá trị tuyệt vời

Đại dịch COVID-19 đã thực sự thách thức lòng trung thành của người tiêu dùng. Chỉ số Future Consumer Index của Earnst & Young cho thấy 61% người tiêu dùng, tuỳ theo ngành hàng, sẵn lòng cân nhắc mua những sản phẩm không thương hiệu (White Label Product), thậm chí có thể mua thay thế cho nhãn hàng mình đang dùng. Động thái này, cùng với sự “thức tỉnh” ngày càng mạnh của người tiêu dùng bắt nguồn từ những bất ổn xã hội trong năm 2020, buộc các nhãn hàng phải thực sự tập trung vào hệ giá trị mà họ đại diện.

Trên thực tế, nội dung chính trong nghiên cứu của Earnst & Young cho thấy mặc dù chất lượng, sự tiện lợi và giá cả vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự lựa chọn của người tiêu dùng, các yếu tố khác như: phát triển bền vững, sự tin cậy, mua hàng hợp đạo đức và trách nhiệm xã hội ngày càng có vai trò quan trọng đối với quyết định lựa chọn sản phẩm hay dịch vụ của người tiêu dùng. Phòng Marketing có cơ hội giáo dục toàn bộ ban giám đốc (thậm chí cả hội đồng quản trị) về tầm quan trọng của hệ giá trị mà thương hiệu đại diện.

9.

Sự thật cũ: Doanh nghiệp cần hạ tầng công nghệ đúng để tiếp thị hiện đại thành công

Sự thật mới: Doanh nghiệp cần sự cân bằng hợp lý giữa nhiều yếu tố (trong đó có hạ tầng công nghệ) để tiếp thị hiện đại thành công

Với sự bùng nổ của các công nghệ quảng cáo và tiếp thị, Marketer rất dễ tập trung vào “hạ tầng công nghệ – Tech Stack” và coi đó là nhân tố làm thay đổi luật chơi của Marketing. Tuy nhiên, mua một chiếc xe Ferrari trong khi bạn chỉ có khả năng lái với tốc độ 40 dặm/giờ thì nó cũng chẳng có ích gì.

Nếu không có sự cân bằng hợp lý giữa công nghệ, dữ liệu, con người, tần suất sử dụng ... thì doanh nghiệp sẽ không bao giờ đạt được hiệu suất đầu tư cho công nghệ Marketing (ROI) như mong muốn.

Để hạ tầng công nghệ của doanh nghiệp có thể tạo ra kết quả kinh doanh, hạ tầng đó cần được đồng bộ với quy mô dữ liệu đủ lớn (vì đó là nhiên liệu cho cơ sở hạ tầng), tần suất sử dụng và nguồn lực con người phù hợp, trong đó yếu tố nhân sự có lẽ là quan trọng nhất. Vì để đảm bảo hiệu quả, nhân sự phải hiểu rõ dữ liệu và công nghệ có thể được sử dụng thế nào trong doanh nghiệp, sở hữu các kỹ năng để sử dụng dữ liệu và công nghệ hiệu quả và có cách tiếp cận đo lường kết quả đúng để có thể khuyến khích sáng tạo và thành công. Nếu không có sự cân bằng hợp lý giữa công nghệ, dữ liệu, con người, tần suất sử dụng ... thì doanh nghiệp sẽ không bao giờ đạt được hiệu suất đầu tư cho công nghệ Marketing (ROI) như mong muốn.

10.

Sự thật cũ: Marketing quan trọng cho tăng trưởng

Sự thật mới: Marketing nằm ở vị trí trung tâm trong chiến lược tăng trưởng của toàn ban giám đốc

Thực tế, đã có lúc Marketing được xem như là một bộ phận tiêu tiền trong doanh nghiệp, với nhiệm vụ chính là tối đa hoá hiệu suất đầu tư. Khi có khó khăn buộc phải điều chỉnh chỉ tiêu doanh số, ngân sách tiếp thị thường là mục bị cắt giảm đầu tiên.

Tuy nhiên, trong bối cảnh đại dịch, Marketing đã được “nâng cấp” trong nhìn nhận của ban lãnh đạo, với vai trò là yếu tố thúc đẩy chuyển đổi số, dẫn đầu hành trình trải nghiệm khách hàng và là tiếng nói của người tiêu dùng. Tất cả những yếu tố này đều tối quan trọng với lãnh đạo của mọi bộ phận trong doanh nghiệp. Nếu không hiểu được trào lưu thời đại của Marketing, kể cả lúc thị trường thuận lợi hay khó khăn, thì người lãnh đạo không thể linh hoạt thích nghi với các thách thức/ cơ hội trước mắt và không thể chèo lái tương lai thành công.

COVID-19 đã cho ra đời văn hoá lãnh đạo mang tên “hợp tác tức thời” với mục tiêu trọng tâm là giải quyết các nhu cầu cấp bách để kiên cường tồn tại. Marketing hiện có cơ hội chiếm giữ vị trí trung tâm trong các cuộc đối thoại của ban lãnh đạo, vì vậy giúp thúc đẩy chiến lược tăng trưởng và sáng tạo tổng thể của doanh nghiệp.

Tiết lộ 10 sự thật về Marketing do đại dịch tạo ra
Nguồn: Envato

Nghệ thuật hay khoa học

Được giao trọng trách liên tục pha trộn nghệ thuật với khoa học, Marketer có trách nhiệm phải đạt được sự cân bằng hoàn hảo giữa “con người” và “tự động hoá” để có thể mở cửa tương lai, mà tại đó phân tích dữ liệu hoàn hảo hơn và trí tuệ nhân tạo được sử dụng trên quy mô lớn. Những người làm Marketing phải sử dụng dữ liệu làm nhiên liệu, nhưng vẫn phải tôn trọng nghệ thuật kể chuyện, để tạo lập mối liên kết con người có ý nghĩa. Marketer cần cân bằng hợp lý giữa tiếp thị nhãn hàng với tiếp thị vì hiệu suất và cần nhận thức được bản thân luôn bị thiên kiến bởi những thứ dễ định lượng. Những gì Marketer cần làm là xác định rõ khâu nào cần đồng nhất tập trung và khâu nào yếu tố đó trở thành rào cản tính linh hoạt.

Những sự thật mới về tiếp thị trong bài này chỉ rõ tầm quan trọng của những điều được đề cập ở trên, nhấn mạnh sự hợp lưu cần thiết của chiến lược, công nghệ và vận hành nhằm thúc đẩy tăng trưởng trong thời hậu COVID-19.

Hiểu được điều này giúp Marketer mở ra con đường phục hồi kinh doanh sau đại dịch, tiến tới thành công lâu dài. Đối với các doanh nghiệp và Marketer vốn đã quá quen với cách làm của quá khứ chắc chắn sẽ cần thời gian điều chỉnh. Tuy nhiên, ngay lúc này Marketer cũng đủ tự tin và đủ bằng chứng để tin vào sự thật hiển nhiên và đơn giản nhất này: Chúng ta cần đặt quan điểm của khách hàng vào vị trí trung tâm, ngay bây giờ, trong tương lai và vượt lên trên tất cả!

Theo Trần Vũ Hoài / Vietnam Business Insider
* Nguồn: Janet Balis / Havard Business Review