Marketer Nguyễn Hải Minh
Nguyễn Hải Minh

Chief of Knowledge @ Wisdom Agency

Nghệ thuật của Chiến tranh với Nghệ thuật của Sự quản lý

Nghệ thuật của Chiến tranh với Nghệ thuật của Sự quản lý

Chiến lược chỉ đơn giản là nghệ thuật sắp xếp các yếu tố riêng biệt để đạt được mục tiêu. Do đó, các chiến lược bất kể hình thức của chúng để phục vụ chiến tranh, quản lý hay cuộc sống cá nhân đơn giản đều có những nguyên tắc không thể thay đổi.

Bài viết dựa trên quan điểm của ông Nguyễn Hải Minh – Wisdom Agency.

Đây hoàn toàn là bài viết phản ánh dựa trên hai cuốn sách mà tôi đã đọc gần đây. Cá nhân tôi có hai điều tuyệt vời cho cuộc sống, thứ nhất là về cách mọi người suy nghĩ và hành xử, thứ hai là về cách họ lên kế hoạch cho tương lai mà theo tôi chủ yếu là về chiến lược.

Chiến lược theo ý kiến riêng của tôi chỉ đơn giản là nghệ thuật sắp xếp các yếu tố riêng biệt để đạt được mục tiêu. Do đó, các chiến lược bất kể hình thức của chúng để phục vụ chiến tranh, quản lý hay cuộc sống cá nhân đơn giản đều có những nguyên tắc không thể thay đổi mà tôi rút ra từ cuốn “The Art of War” (Nghệ thuật chiến tranh) – một chuyên luận 2.500 năm của một tướng quân và chiến lược gia người Trung Quốc – Tôn Tử và cuốn sách “Why Nations Fail” (Tại sao các Quốc gia thất bại) được viết bởi hai giáo sư Daron Acemoglu và James A. Robinson.

Trong cuốn “The Art of War”, Tôn Tử nêu 5 nguyên tắc của một cuộc chiến vĩ đại là (1) Đạo đức, (2) Bầu trời, (3) Trái đất, (4) Khái quát và (5) Luật lệ làm nền tảng cho 13 chương của quyển sách. Mặc dù được viết cách đây 2.500 năm, giá trị của những nguyên tắc này vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí còn được áp dụng rất nhiều vào quản lý kinh doanh của các công ty Nhật Bản bằng cuộc chinh phục đầu tiên của họ trên thị trường Trung Quốc sau Thế chiến II.

Nghệ thuật của Chiến tranh với Nghệ thuật của Sự quản lý

Nhìn từ một góc độ khác trong cuốn “Why Nations Fail”, Acemoglu và Robinson nhấn mạnh tầm quan trọng của một thể chế tốt là nhân tố chính cho sự giàu có của quốc gia. Giải thích thêm về phát hiện này bởi 600 trang của cuốn sách là làm thế nào để thực hiện một tổ chức tốt. So sánh các lý thuyết của hai quan điểm trên, tôi đề xuất những nguyên tắc cơ bản của hai nghệ thuật chiến tranh và quản trị:

  1. Cấu trúc mệnh lệnh: Rõ ràng và minh bạch, cấu trúc quản lý phải đơn giản và tập trung. Phân cấp và tự quản lý của mỗi đơn vị là chìa khoá của cấu trúc hiệu quả. Trong nhiều trường hợp, nên tránh quản lý phức tạp và chồng chéo. Một ví dụ kinh điển là thất bại của Hitler đối với quân Đồng minh bởi nỗi ám ảnh của Hitler về việc tập trung quyền lực của chính mình.
  2. Chính sách khen thưởng & trừng phạt: Nên tương đương nhau về giá trị một người kiếm được cho tổ chức so với giá trị mà anh ta bỏ ra. Duy trì sự cân bằng giữa các chính sách khen thưởng và trừng phạt cũng là một nghệ thuật cân bằng giữa tài chính và lực lượng lao động. Quá nhiều sự khen thưởng thì tổ chức hết kho báu; và ngược lại, tổ chức hết người tài và rồi thua cuộc chiến.
  3. Quá trình: Nên nhanh, về bản chất. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã áp dụng “cơ chế một cửa” của Tôn Tử là nhanh và linh hoạt như là cơ bản cho mọi cuộc chiến. Ví dụ: nếu một yêu cầu tương tự mất 5 ngày để được xử lý trong công ty hơn 1.000 người, và việc đó cũng mất cùng thời gian trong một công ty hơn 40 người, thì công ty to lớn kia đang có một vấn đề rất lớn cần khắc phục trong quy trình.

Quản trị về bản chất không phải là khai thác mà là tạo ra và phân phối phúc lợi công bằng giữa mọi người thuộc mọi tầng lớp.

Cuối cùng, một thứ có thể được coi là nguyên tắc chung thứ tư hoặc theo tôi là mục tiêu của tất cả các cuộc chiến tranh và quản trị là phúc lợi nhân dân, được tất cả các tác giả đồng ý. Chiến tranh không phải là về sự tàn phá mà là phương pháp cuối cùng để giải quyết những xung đột khác nhau. Quản trị về bản chất không phải là khai thác mà là tạo ra và phân phối phúc lợi công bằng giữa mọi người thuộc mọi tầng lớp.

Áp dụng vào bối cảnh kinh doanh, những câu hỏi mà tôi sẽ đặt ra là “Tôi có phải là người làm việc cho công ty có tất cả ba nguyên tắc chung đó không?” Nếu không, “Tôi sẽ vui lòng ở lại để sửa chữa chúng hay chỉ đơn giản là ra đi?”. Cá nhân tôi tin rằng lựa chọn cuối cùng là nằm trong ý chí của mỗi người. Trước 30, tôi sẵn sàng ở lại và sửa chữa mọi thứ. Sau 30, tôi nghĩ có thể dễ dàng rời đi sau lần thử thứ tư. Do đó, nó hoàn toàn là vấn đề cá nhân, phải không?