WB: Dòng vốn nước ngoài tiếp tục đổ vào vì Việt Nam xử lý tốt đại dịch COVID-19
Theo nhận định của WB, Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng GDP 3% trong năm 2020, trong khi thế giới tăng trưởng âm 4%.
Nhận định trên được Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra trong báo cáo có tên gọi ‘Điểm lại’, cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam, công bố ngày 21/12.
Theo quan điểm của WB, Việt Nam có kết quả như trên là nhờ khả năng chống chịu của cả khu vực kinh tế trong nước và kinh tế đối ngoại. Không những kiềm chế được đại dịch COVID-19 bằng những biện pháp sớm, quyết liệt và sáng tạo, Chính phủ còn sử dụng các chính sách tài khoá và tiền tệ để tháo gỡ khó khăn cho khu vực tư nhân và thúc đẩy phục hồi.
Chẳng hạn, chi tiêu công bắt đầu tăng trở lại sau 3 năm thắt chặt tài khoá. Trong 9 tháng đầu năm 2020, giải ngân đầu tư công đã tăng đến 40% so với cùng kỳ năm trước.
Khu vực kinh tế đối ngoại, động lực tăng trưởng kinh tế chính của Việt Nam trong thập kỷ qua, đạt kết quả rất tốt tính từ khi khủng hoảng COVID-19 bắt đầu. Việt Nam dự kiến sẽ đạt mức xuất khẩu hàng hoá thặng dư lớn nhất từ trước đến nay đồng thời dự trữ ngoại hối tăng.
Ảnh minh hoạ
Dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đổ vào Việt Nam kết hợp với xuất khẩu hàng hoá tăng mạnh đã bù đắp cho thất thu ngoại tệ do hoạt động du lịch suy giảm và nguồn kiều hối bị thu hẹp.
Báo cáo cho biết các nhà đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục và/ hoặc đang dịch chuyển các hoạt động sản xuất sang Việt Nam do Việt Nam đã quản lý tốt đại dịch.
Trong thời gian tới, triển vọng của Việt Nam được cho là tích cực khi nền kinh tế được dự báo tăng trưởng ở mức 6,8% trong năm 2021 và sẽ ổn định quanh mức 6,5% ở các năm tiếp theo.
Dự báo này được tính toán dựa trên giả định rằng khủng hoảng COVID-19 sẽ dần được kiểm soát khi vắc xin COVID-19 chứng minh được hiệu quả. Mặc dù vậy, quy mô và thời gian kéo dài của đại dịch COVID-19 cũng như tác động kinh tế của nó khó có thể dự báo và do đó không thể bỏ qua một kịch bản tăng trưởng thấp hơn.
Báo cáo của WB nhấn mạnh rằng Việt Nam vẫn còn tiềm tàng những rủi ro tài khoá, tài chính và xã hội, đòi hỏi các cấp có thẩm quyền quan tâm hơn nữa.
Báo cáo phân tích về những xu thế gần đây của nền kinh tế Việt Nam, trong đó đặt câu hỏi tại sao Việt Nam chưa xử lý được những thách thức về khí hậu và môi trường hiệu quả như với khủng hoảng COVID-19, tuy được cho là khác biệt nhưng lại có nhiều điểm tương đồng. Cũng giống như đại dịch COVID-19, những thảm hoạ về khí hậu và môi trường cũng gây ra nhiều thiệt hại rất lớn về người và của và đều cho thấy cuộc sống của con người rất mong manh.
Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam
“Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt để phục hồi sau COVID-19. Quốc gia này đang có cơ hội để chọn con đường phát triển xanh hơn, thông minh hơn và bao trùm hơn và nhờ đó trở nên vững vàng hơn trước những cú sốc trong tương lai do đại dịch và/ hoặc do thảm hoạ thiên nhiên”, bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho biết.
Cũng theo bà Carolyn Turk, Việt Nam cần phải xử lý những thách thức về khí hậu và môi trường với tinh thần khẩn trương như đã làm với COVID-19, vì cái giá phải trả từ việc không hành động ngày càng tăng và không thể đảo ngược. Đợt bão lũ lịch sử tại miền Trung vừa qua và ô nhiễm không khí tăng lên tại các thành phố lớn trong nước là minh chứng rõ rệt về sự mong manh, dễ tổn thương được nói đến ở trên.
Hai bài học rút ra qua quản lý thành công đại dịch COVID-19 có thể được áp dụng để giải quyết tốt hơn vấn đề môi trường.
Thứ nhất, cách tốt nhất để ứng phó với cú sốc bên ngoài là phải chuẩn bị năng lực từ trước, đồng thời phải hành động sớm và kiên quyết.
Thứ hai, ngoài tầm nhìn và năng lực, việc tạo điều kiện thử nghiệm cách làm mới và sáng tạo cũng góp phần thay đổi hành vi năng lực của cá nhân và tập thể, đây là nền tảng cho các chiến lược ứng phó với những nguy cơ về y tế và khí hậu.
Ngọc Diệp
Nguồn BizLive