Đại dịch COVID-19 là ngày tận thế của ngành bán lẻ toàn cầu?
Hàng ngàn cửa hàng sẽ đóng cửa vĩnh viễn khi đại dịch COVID-19 tăng tốc chuyển sang thương mại điện tử.
Ngay cả khi các trung tâm và cửa hàng bắt đầu mở cửa trở lại, đại dịch COVID-19 đã gây thiệt hại cho một ngành công nghiệp đã bị vùi dập bởi sự chuyển đổi sang mua sắm trực tuyến. Chỉ tính riêng tháng 4, hơn 2 triệu lao động ngành bán lẻ bị mất việc khi nhiều cửa hàng đóng cửa. Chính phủ Mỹ cho biết, đây là một trong những tháng tồi tệ nhất đối với các nhà bán lẻ kể từ Thế chiến II.
Theo ước tính của UBS, khoảng 100.000 cửa hàng dự kiến sẽ đóng cửa trong vòng 5 năm tới nhiều hơn gấp 3 lần số lượng đóng cửa trong thời kỳ suy thoái trước đó khi thương mại điện tử nhảy vọt lên 1/4 doanh số bán lẻ của Mỹ từ 15% năm ngoái, UBS ước tính.
Chỉ trong tháng này, nhà bán lẻ xa xỉ Neiman Marcus, J.Crew và Stage Stores – một nhà điều hành của các cửa hàng bách hoá nông thôn, đã nộp đơn xin bảo hộ phá sản.
“Nếu đây không được gọi là ngày tận thế của ngành bán lẻ, tôi không biết như thế nào mới đúng nữa”, bà Sarah Wyeth – nhà phân tích ngành nhà hàng – bán lẻ tại S&P Global Ratings cho biết. Bà Wyeth ước tính xác suất vỡ nợ của 19 hãng bán lẻ được S&P theo dõi là 50%. Năm 2008, số hãng vỡ nợ chỉ là 5.
Nỗi đau đang được cảm nhận sâu sắc bởi các chuỗi cửa hàng may mặc và trung tâm thương mại có trụ sở tại trung tâm thương mại đã khập khiễng trước đại dịch. J.Crew đã mất tiền trong 6 năm liên tiếp. Penney đã không đặt lợi nhuận hàng năm trong 9 năm.
Nhưng những chuỗi phổ biến trước đại dịch đang thu hút người mua hàng trở lại khi những hạn chế được dỡ bỏ. Sau khi bị giãn cách tại nhà, mọi người đã đeo khẩu trang và xếp hàng để kiểm tra nhiệt độ để vào các cửa hàng Apple ở Charleston, SC và đổ xô đến các cửa hàng sang trọng ở Paris.
Ông Jide Zeitlin, Giám đốc Điều hành của Coach, Tapestry cho biết, đã mở lại các cửa hàng trên toàn thế giới. Đến cuối tuần này, họ sẽ mở lại 300 địa điểm, trong đó bao gồm các thương hiệu Kate Spade và Stuart Weitzman, ở Bắc Mỹ.
Ông Zeitlin cho biết, ranh giới giữa mua sắm vật lý và kỹ thuật số đang mờ nhạt, vì khách hàng thường nghiên cứu các mặt hàng trực tuyến trước khi mua chúng trong các cửa hàng và ngược lại.
Bà Sonia Syngal, người đã tiếp quản vị trí CEO của Gap vào giữa tháng 3, cho biết Công ty có thể sẽ mở lại ít cửa hàng hơn cho thương hiệu Gap hàng đầu của mình. “Chúng tôi sẽ sử dụng điều này như một cơ hội để làm mới công ty cho những gì chúng tôi muốn nó sẽ trông như thế nào trong 50 năm tới”, bà nói trong một cuộc phỏng vấn vào tuần trước.
Với Brittany Croffie – một nhân viên văn phòng 25 tuổi tại Mỹ, giờ này năm ngoái cô đang mua váy, giày và kính mới để chuẩn bị cho các bữa tiệc mùa hè. Nhưng 4 tuần qua, cô chỉ mua một chiếc laptop mới và các sản phẩm chăm sóc da.
Croffie cho biết việc thay đổi thói quen này có lẽ sẽ theo cô trong dài hạn. “Tôi đã tiết kiệm rất nhiều tiền vì không mua thêm quần áo”, cô nói, “Việc này đã dạy tôi cách chi tiền cho những thứ thực sự đáng mua”. Cuối cùng, thế giới sẽ trở lại bình thường và sẽ có những người xem việc mua sắm trong các cửa hàng là giải trí và muốn thử quần áo trước khi họ mua chúng. Nhưng một số chuỗi sẽ không có đủ tiền để chờ đến ngày đó.
Rất nhiều hãng bán lẻ đã lung lay từ trước khi có lệnh phong toả. Gần 3/4 hãng bán lẻ được S&P theo dõi có xếp hạng trái phiếu ở mức “rác” trước đại dịch, kể cả các tên tuổi như Abercrombie & Fitch hay Foot Locker. Macy’s cũng bị hạ xếp hạng tín nhiệm hồi tháng 2.
Sự trỗi dậy của Amazon và mua sắm online đã ăn mòn lợi nhuận các hãng bán lẻ. Trong nhóm 25 hãng bán lẻ lớn được hãng tư vấn AlixPartners theo dõi, lợi nhuận trước thuế vã lãi suất năm ngoái đã giảm xuống chỉ còn tương đương 7% doanh thu, thay vì 11% năm 2012. Trong khi đó, tỉ lệ này của các hãng thương mại điện tử là 18%, tăng từ 10%.
Ông Patrik Frisk, Giám đốc Điều hành của nhà sản xuất đồ thể thao Under Armor, cho biết 2 năm tới sẽ buộc các lựa chọn khó khăn tại nhiều thương hiệu khi doanh số bán hàng trực tuyến thay đổi nhiều hơn. “Dĩ nhiên vẫn còn các cửa hàng truyền thống và mặt bằng bán lẻ. Tức là sẽ có người thắng và kẻ thua trong môi trường này. Không chỉ trong lĩnh vực của chúng tôi. Tôi cho rằng đây là tình hình chung của ngành bán lẻ”, ông cho biết trước các nhà đầu tư tuần này.
UBS ước tính số lượng cửa hàng bán lẻ ở Mỹ sẽ giảm xuống còn 782.000 trong năm năm tới từ 883.000 vào năm ngoái. Đó là một tác động lớn hơn nhiều so với thời kỳ suy thoái năm 2008, khi 28.455 cửa hàng đóng cửa.
Trước đại dịch, Macy’ cho biết họ sẽ đóng cửa khoảng 125 trong số 580 cửa hàng bách hoá của mình trong 3 năm tới. Tạm thời đóng cửa tất cả vào tháng 3, công ty đã bắt đầu mở lại nhiều cửa hàng của mình trong tháng này, mặc dù giám đốc điều hành của họ hy vọng các địa điểm quay lại đầu tiên sẽ làm ít hơn 1/5 khối lượng bán hàng bình thường ban đầu.
Thái Bình
Nguồn Nhịp cầu Đầu tư