Chúng ta đang ưu tiên cái thiếu hiệu quả nhưng thừa ô nhiễm

Chúng ta đang ưu tiên cái thiếu hiệu quả nhưng thừa ô nhiễm

Nhiều năm qua, trong các báo cáo và thậm chí cả các bài viết mang tính nghiên cứu đều mặc nhiên thừa nhận tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) và cơ cấu của khu vực II (các ngành công nghiệp và xây dựng) và khu vực III (các ngành dịch vụ) trong GDP cần phải tăng lên.

Đó được xem như một sự phát triển đúng hướng và ý tưởng trong tái cấu trúc kinh tế là cần đẩy mạnh cả khu vực II và khu vực III. Thực tế, Việt Nam vẫn lấy tăng trưởng và cấu trúc ngành với thứ tự ưu tiên (công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp) như là mục đích tối thượng mà không cần biết đến hậu quả như hậu quả về môi trường, nợ nần...

Tỷ lệ đầu tư của nhóm ngành công nghiệp trong nền kinh tế ngày càng cao. Nếu năm 2005 tỷ lệ này vào khoảng 43%, thì đến năm 2015 đã là trên 49%. Nhưng điều trớ trêu là tỷ lệ giá trị tăng thêm so với giá trị sản xuất của nhóm ngành công nghiệp lại giảm nhanh đến đáng kinh ngạc.

Chúng ta đang ưu tiên cái thiếu hiệu quả nhưng thừa ô nhiễm

Càng đầu tư nhiều vào lĩnh vực công nghiệp thì khí phát thải ô nhiễm càng nhiều. Ảnh: Thành Hoa

Tỷ lệ này của năm 2000 (cấu trúc của bảng I/O năm 2007 của Tổng cục Thống kê) là 34,1%, đến những năm gần đây (cấu trúc của bảng I/O mới) chỉ còn 21%. Điều này có nghĩa khu vực này ngày càng kém hiệu quả, lượng đầu tư ngày càng phải tăng lên để bù đắp vào sự kém hiệu quả trong sản xuất kinh doanh.

Bài viết này đặt ra vấn đề nếu tiếp tục mức tăng trưởng kinh tế bình quân 6,5-7% và cấu trúc kinh tế vẫn thiên về công nghiệp (khai thác và chế biến chế tạo) như mục tiêu các nhà hoạch định chính sách đưa ra và đang phấn đấu đạt đến, thì tình hình phát thải khí nhà kính sẽ ra sao và cấu trúc kinh tế sẽ thế nào? Hoặc nếu thay đổi cấu trúc về ngành, tình hình sẽ ra sao? Và lộ trình cần thay đổi sẽ phải thế nào từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm?

Chất thải tính toán dựa trên hai kịch bản: (1) Tăng trưởng bình quân GDP hàng năm từ 2012-2020 là 6,8%, trong đó cơ cấu giá trị gia tăng nông nghiệp đến năm 2020 ở mức 15%; cơ cấu công nghiệp và xây dựng 35%; cơ cấu khu vực dịch vụ 42% và (2) cơ cấu nông nghiệp giảm xuống 10%, công nghiệp 40% và dịch vụ 45%.

Trong kịch bản 1, khối lượng phát thải CO2 tăng từ 139 triệu tấn năm 2010 lên 263 triệu tấn năm 2020 và tổng số phát thải khí tăng từ 268 triệu tấn năm 2010 lên 480 triệu tấn năm 2020. Tăng bình quân về phát thải CO2 là 6,8% ở kịch bản 1 và 7,5% đối với kịch bản 2.

Nhu cầu về năng lượng và lượng phát thải CO2 cho một đơn vị tăng lên của giá trị gia tăng của Việt Nam còn cao hơn cả Trung Quốc, nhưng nếu loại phần chi phí trung gian là nhập khẩu thì hệ số về nhu cầu năng lượng và phát thải CO2 của Việt Nam lại thấp hơn của Trung Quốc.

Phải chăng Việt Nam nhập khẩu công nghệ lạc hậu, chỉ tính đến lợi nhuận mà không tính đến những ảnh hưởng về môi trường?

Một điều đáng ngạc nhiên là nhu cầu về năng lượng và lượng phát thải CO2 cho một đơn vị tăng lên của giá trị gia tăng của Việt Nam còn cao hơn cả Trung Quốc, và nếu loại phần chi phí trung gian là nhập khẩu thì hệ số về nhu cầu năng lượng và phát thải CO2 của Việt Nam lại thấp hơn của Trung Quốc.

Phải chăng Việt Nam nhập khẩu công nghệ lạc hậu, chỉ tính đến lợi nhuận mà không tính đến những ảnh hưởng về môi trường? Như vậy nếu Việt Nam chỉ cố gắng phấn đấu tăng trưởng cao mà không tính đến thay đổi cấu trúc trong nội tại mỗi ngành và cơ cấu ngành trong tổng giá trị gia tăng, thì đến năm 2035 Việt Nam sẽ vào tốp 10 thế giới về ô nhiễm.

Mới đây Tổng cục Thống kê công bố kết quả đánh giá lại làm GDP tăng 25,4%, điều này hàm ý tỷ lệ nợ công, bội chi và dư địa để thu ngân sách còn nhiều...

Cơ cấu giá trị tăng thêm rất đẹp, phù hợp với định hướng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ 17,4% xuống còn 14,7%. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 33% lên 34,8%. Khu vực dịch vụ tăng từ 39,2% lên 41,2%. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng về quy mô so với số đã công bố nhưng cơ cấu trong GDP giảm từ 10,4% xuống 9,3% bình quân cả giai đoạn.

Đáng chú ý, tuy thay đổi về quy mô song nhìn chung, tốc độ tăng GDP hàng năm không có biến động lớn so với số đã công bố. Cơ cấu kinh tế mà Tổng cục Thống kê đưa ra gần giống với kịch bản 1. Câu hỏi đặt ra là trong việc tính toán lại về GDP, Tổng cục Thống kê đã tính toán đến tác hại về môi trường chưa? Tính toán từ mô hình cho thấy khối ngành chế biến, chế tạo và xây dựng có lượng phát thải khí nhà kính vượt trội các ngành khác trong nền kinh tế.

Điều trớ trêu, đây lại là nhóm ngành góp phần khá lớn làm tăng quy mô GDP lên 25,4%. Phải chăng, trong suy nghĩ của hầu hết mọi người, tăng trưởng và quy mô GDP là tối quan trọng, nên dường như bỏ qua hoàn toàn yếu tố môi trường? Việc tăng quy mô GDP và phấn khởi với việc “còn nhiều dư địa” để đánh thuế để cân đối thu chi ngân sách cũng quan trọng, nhưng quan trọng hơn là cần đặt mục tiêu một cách thực chất về giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Mạc Bùi
Nguồn The Saigon Times